Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

09/09/2014

Nhìn lại đêm trước Đổi Mới và Đổi Mới - 7 (một cuốn sách xuất bản năm 1984 mang tên Lê Duẩn)

Có một quyển sách mỏng ghi tên tác giả Lê Duẩn, xuất bản năm 1984 (Hà Nội, Nxb Sự thật), có tựa đề Nắm vững quy luật, đổi mới quản lý kinh tế.

Cuốn này tựa như hay bị bỏ quên. Gần đây được in chung vào bộ sách ra đời năm 2006. Và một năm trước thì được đưa lên website Đảng Cộng Sản Việt Nam.


Bản dưới đây là chép nguyên xi từ website đó về.


---
Nắm vững quy luật, đổi mới quản lý kinh tế
Ngày 13/9/2013. Cập nhật lúc 15h 39'



Ý kiến trình bày tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V)1), ngày 3 tháng 7 năm 1984
Thưa các đồng chí,
Hội nghị Trung ương lần này bàn về vấn đề sắp xếp lại lực lượng sản xuất và đổi mới quản lý kinh tế. Đây là một vấn đề quan trọng cấp bách do cuộc sống đặt ra và đòi hỏi phải được giải quyết một cách đúng đắn để phát huy hơn nữa những thành tựu đã đạt được, sớm đưa nền kinh tế nước ta vượt qua những khó khăn trước mắt, tiếp tục tiến lên mạnh mẽ.
Không ngừng nâng cao vai trò của quản lý kinh tế để giải quyết những nhiệm vụ kinh tế - xã hội phù hợp với những quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của kinh tế xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của chúng ta. Nhiệm vụ được đặt ra không chỉ đối với nước ta đang còn ở trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ mà còn đặt ra cả đối với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đang tiến bước trong một giai đoạn cao hơn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mấy chục năm nay, trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển, Liên Xô và các nước anh em khác đều coi hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế như là một trong những nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu để nâng cao hiệu quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, khai thác theo chiều sâu những tiềm năng của đất nước và phát huy tính ưu việt của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, vấn đề đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được đặt ra trong chương trình của Trung ương từ đầu khoá IV, nhất là tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu. Đại hội lần thứ V của Đảng và các hội nghị sau đó của Trung ương khoá V đã đề ra những phương hướng cơ bản về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đảng và Nhà nước ta đã có những cố gắng to lớn khắc phục một bước cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp và xúc tiến việc hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới nhằm thực hiện đúng những nguyên tắc quản lý kinh tế, vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất quản lý của trung ương vừa mở rộng và phát huy quyền chủ động, sáng tạo của các cơ sở, các địa phương, các ngành trong sản xuất kinh doanh, thực hiện quyền làm chủ tập thể của quần chúng lao động, khuyến khích mạnh mẽ tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Những sự đổi mới đó trong công tác quản lý kinh tế - như Hội nghị lần thứ năm của Trung ương chỉ rõ - tuy là bước đầu nhưng đã góp phần quan trọng tạo ra những tiến bộ trong tình hình kinh tế - xã hội 3 năm qua. Mặc dù vậy, nền kinh tế của ta vẫn còn nhiều khó khăn, thể hiện trên các mặt: cơ sở vật chất - kỹ thuật còn non yếu, năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế còn thấp; trận địa xã hội chủ nghĩa có những bộ phận bị thu hẹp; trật tự trong nền kinh tế và trong xã hội có những hiện tượng hỗn loạn kéo dài; hiệu lực của bộ máy nhà nước chưa đủ mạnh.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan mà Trung ương đã nhiều lần chỉ rõ, chúng ta cần thấy đầy đủ hơn những thiếu sót chủ quan, trước hết là trong tổ chức và quản lý kinh tế. Ở lĩnh vực này, vẫn còn khá nhiều hiện tượng bảo thủ và trì trệ cũng như phân tán, cục bộ, trước hết là chưa quán triệt và cụ thể hoá đường lối của Đảng một cách đúng đắn phù hợp với tình hình của đất nước để tạo nên một cơ chế quản lý mới hợp lý hơn.
Dưới chủ nghĩa xã hội, quản lý kinh tế là phương tiện để vận dụng những quy luật khách quan đã được nhận thức nhằm đạt tới việc không ngừng nâng cao hiệu quả của từng đơn vị sản xuất - kinh doanh cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, để đạt cho được những mục tiêu kinh tế - xã hội do Đảng lãnh đạo đề ra. Thực tiễn quản lý và những sai lầm, khuyết điểm tương đối phổ biến cho thấy sự cấp bách của việc đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cả về hình thức và nội dung. Chúng ta không thể không xem xét một cách có hệ thống từ cơ cấu kinh tế, tổ chức sản xuất đến cơ chế kế hoạch hoá, hệ thống các chính sách kinh tế và bộ máy quản lý, để trên cơ sở đó, xác định một cơ chế quản lý thích hợp. Đây là việc không dễ dàng, nhưng nhất thiết phải làm và làm đúng, tập trung sức giải quyết cho được một số khâu then chốt. Điều kiện thuận lợi to lớn là chúng ta đã có kinh nghiệm phong phú xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và quản lý kinh tế nói riêng của các nước anh em. Chúng ta cần phải tham khảo và vận dụng đúng những kinh nghiệm ấy. Song các nước anh em và nước ta đang ở hai thời kỳ khác nhau của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, và ngay cả buổi đầu của các nước anh em cũng không giống tình hình nước ta hiện nay. Vì vậy, không phải bất kỳ hình thức và phương pháp quản lý nào đã từng được áp dụng thành công ở các nước anh em cũng có thể đưa đến kết quả tốt đẹp ở nước ta. Chúng ta phải có tinh thần sáng tạo trong việc học tập kinh nghiệm của các nước, không thể sao chép máy móc những gì các nước khác đã làm và đang làm.
Để xác định và hoàn thiện một cơ chế quản lý đúng đắn, chúng ta phải tổng kết những kinh nghiệm của chính mình. Đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, là việc chưa từng có trong lịch sử nhưng lại là một tất yếu trong thời đại mới, biết bao nhiêu vấn đề được đặt ra phải giải quyết. Quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa đang đặt ra hàng loạt vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được giải quyết, bao gồm những vấn đề xác định đường lối cách mạng và đường lối phát triển kinh tế, những động lực của sự phát triển, quản lý nhà nước, tổ chức thực tiễn, phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Chúng ta không thể quản lý thành công một nền kinh tế đang ở thời kỳ quá độ nếu chỉ mô phỏng kinh nghiệm quốc tế, hoặc moi tìm trong sách vở những lời chỉ dẫn của các nhà kinh điển, mà không tự mình vươn lên nắm lấy vũ khí sắc bén nhất của thời đại - phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đảng phải trang bị cho cán bộ, đảng viên những hiểu biết sâu sắc về lý luận và thực tiễn, tạo ra trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý một tư duy kinh tế đúng đắn, tức là nắm vững và vận dụng đúng các quy luật kinh tế, và quan trọng hơn là các quy luật chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Nhân hội nghị này của Trung ương, trước khi đi vào giải quyết những vấn đề cụ thể của cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý, tôi muốn trình bày với các đồng chí Trung ương những vấn đề có tính chất quy luật chung ấy - những vấn đề đã được nêu lên rất cô đọng, rất súc tích trong đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế nhưng chưa được mọi người chúng ta nhận thức đầy đủ và vận dụng đúng đắn. Nếu không nhận rõ những quy luật chung, không quán triệt những tư tưởng cơ bản của đường lối, thì sẽ không thể có những quyết định đúng về quản lý kinh tế.

I- NHÂN DÂN LAO ĐỘNG LÀM CHỦ TẬP THỂ
TIẾN HÀNH ĐỒNG THỜI BA CUỘC CÁCH MẠNG
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta đề ra phản ánh quy luật của nước ta từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đường lối ấy chỉ rõ nhân dân lao động làm chủ tập thể là bản chất của chế độ mới, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động là mục tiêu bao trùm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhân dân lao động làm chủ tập thể là một điều hoàn toàn mới ở nước ta cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, cho nên người ta không dễ dàng nhận thức tầm vóc lịch sử của nó. Đối với người Việt Nam chúng ta, bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc cho dân tộc ta những truyền thống bền vững và quý báu:  ý chí làm chủ đất nước và tinh thần cộng đồng. Nhờ những truyền thống ấy, dân tộc ta đã đứng vững mà không bị đồng hoá qua một nghìn năm thống trị của chủ nghĩa phong kiến phương Bắc; ông cha ta đã đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của hết triều đại này đến triều đại khác của các thế lực bành trướng ... Ngày nay, dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền thống ấy bắt gặp xu thế của thời đại, tạo thành động lực to lớn của chế độ mới, đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh bậc nhất là Pháp và Mỹ.
Xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động là kết hợp truyền thống dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Với tính cách là bản chất của chế độ mới và mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, làm chủ tập thể là kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng. Nó được xây dựng trong mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng về quan hệ sản xuất tạo ra cơ sở kinh tế cho nhân dân lao động làm chủ tập thể: làm chủ lao động, làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ sản xuất, làm chủ phân phối lưu thông. Coi nhẹ cách mạng quan hệ sản xuất bất cứ ở khâu nào cũng là làm suy yếu cơ sở kinh tế của chế độ làm chủ tập thể. Ngập ngừng trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, không coi trọng kế hoạch hoá hoặc không kế hoạch hoá đúng đắn, không phát huy quyền làm chủ sản xuất và phân phối lưu thông, không thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động, v.v. là buông lỏng cho các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa phát triển, làm xói mòn kinh tế xã hội chủ nghĩa, khiến cho hoạt động kinh tế đi chệch phương hướng cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng khoa học - kỹ thuật tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng này đem lại cho nhân dân lao động khả năng làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội ngày càng cao, dựng lên cái "cốt vật chất" của chế độ mới, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, bảo đảm cho chế độ làm chủ tập thể hoàn toàn và vĩnh viễn chiến thắng chế độ làm chủ cá thể.
Chúng ta tiến hành cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật dưới chế độ làm chủ tập thể của quần chúng lao động, có thể khai thác tốt nhất những khả năng phong phú của trí tuệ và kinh nghiệm.
Đại hội lần thứ IV của Đảng chỉ rõ phải biết kết hợp các trình độ kỹ thuật khác nhau, vừa tranh thủ kỹ thuật hiện đại vừa tận dụng tiềm năng còn có thể khai thác của kỹ thuật thủ công. Nếu chúng ta cứ bằng lòng với lối làm ăn cũ, thiếu say sưa đi vào khoa học - kỹ thuật, thiếu quyết tâm tiến hành công nghiệp hoá, chậm đưa cách mạng khoa học - kỹ thuật vào những khâu cần thiết, thì sản xuất giẫm chân tại chỗ, đời sống của người lao động khó khăn. Những nơi nào, lúc nào chúng ta không ra sức cải tiến và nâng cao các nghề thủ công và tiểu công nghiệp truyền thống, mà lại định vội vàng xoá bỏ chúng, thì lập tức chúng ta phải trả giá: lao động dư thừa không có việc làm, hàng hoá thiếu thốn, nhu cầu bình thường của nhân dân không được đáp ứng.
Cách mạng quan hệ sản xuất kết hợp với cách mạng khoa học - kỹ thuật hình thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp, cơ sở kinh tế của chế độ làm chủ tập thể.
Cách mạng tư tưởng và văn hoá xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, con người làm chủ tập thể, có năng lực và ý thức làm chủ. Buông lỏng mặt trận tư tưởng và văn hoá là phó mặc con người cho sự tiến công của các hệ tư tưởng và văn hoá tư sản, thực dân, phong kiến, tạo điều kiện cho những tư tưởng, lối sống, tâm lý, thói quen của người sản xuất nhỏ gậm nhấm thành quả của chủ nghĩa xã hội và những tàn dư văn hoá cũ, những tập tục lạc hậu phục hồi trở lại, làm hư hỏng con người, kích thích chủ nghĩa ích kỷ cá nhân.
Chế độ làm chủ tập thể là một tổng thể các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Nó phải được xây dựng một cách đồng bộ trong tất cả những quan hệ ấy. Vì vậy, phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng trong sự tác động qua lại lẫn nhau của chúng.
Chế độ làm chủ tập thể không chỉ là mục đích cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn là mục tiêu hành động cách mạng hằng ngày. Các quan hệ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa hình thành, phát triển và chín muồi qua từng bước phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải kịp thời từng bước thể chế hoá những quan hệ ấy bằng những tổ chức, thiết chế, chế độ, pháp luật, quy tắc, v.v. thích hợp, nhằm bảo đảm cho nhân dân lao động luôn luôn thật sự làm chủ cuộc sống của mình. Tuỳ  theo sự phát triển của ba cuộc cách mạng, chế độ làm chủ tập thể được xây dựng từng bước từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Được xây dựng đúng đắn, chế độ làm chủ tập thể trở thành động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nó có sức mạnh to lớn thúc đẩy lịch sử tiến lên mà các chế độ xã hội trước đây chưa có.
Chế độ làm chủ tập thể tạo điều kiện cho nhân dân lao động làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân. Làm chủ là nắm quy luật và hành động theo đúng quy luật. Khi con người nắm được quy luật vận động của xã hội, quy luật thiên nhiên, quy luật tư duy và vận dụng những quy luật ấy vào hoạt động, tổ chức và quản lý xã hội, thì sẽ thúc đẩy tiến trình của lịch sử với những nhịp độ chưa từng thấy. Nắm vững quy luật này, chúng ta hoàn toàn làm chủ được quá trình phát triển của nước ta.
Chế độ làm chủ tập thể bảo đảm cho nhân dân lao động làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Chế độ mới tạo ra sức mạnh tổng hợp của ba nhân tố: sức mạnh hành động tự giác của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của tổ chức do một chính quyền tập trung cao độ tạo ra và sức mạnh những phong trào cách mạng sâu rộng của hàng chục triệu người. Chế độ làm chủ về kinh tế bảo đảm sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quyện với nhau làm một. Nó cho phép tổ chức lại ngay lập tức mấy chục triệu lao động và kết hợp sức lao động ấy với đất đai và ngành nghề theo một quy hoạch và kế hoạch hợp lý, trong phạm vi cả nước, và kết hợp với cách mạng khoa học - kỹ thuật tạo ra những lực lượng sản xuất to lớn nhằm chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu. Làm chủ về văn hoá tạo điều kiện cho nhân dân lao động phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nắm được những thành tựu cao của trí tuệ loài người, biến những cái đó thành sức mạnh vật chất. Như vậy, chế độ làm chủ tập thể đem lại cho nhân dân lao động ba công cụ mạnh nhất: quyền lực chính trị, sức mạnh kinh tế, sức mạnh khoa học, kỹ thuật.
Chế độ làm chủ tập thể kết hợp sức mạnh của cộng đồng với sức mạnh của cá nhân. Xã hội, gia đình và cá nhân vốn thống nhất. Chế độ xã hội có giai cấp đối lập xã hội với cá nhân và gia đình. Chế độ làm chủ tập thể làm cho cá nhân, gia đình và xã hội thống nhất lại trong một tồn tại hợp lý nhất. Nó giải phóng xã hội để giải phóng cá nhân. Nó chăm lo sự phồn vinh của xã hội vì hạnh phúc từng gia đình, từng cá nhân. Nó ràng buộc cá nhân vào trong kỷ cương của cộng đồng để đem lại cho cá nhân tự do đầy đủ. Nó kết hợp sự làm chủ của cộng đồng với sự làm chủ của cá nhân. Làm chủ của cộng đồng đem lại sức mạnh tập trung của cả nước, của từng địa phương và từng tập thể. Không có sự làm chủ ấy thì sau hơn 30 năm chiến tranh, với một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ lại bị thiên tai phá hoại và trong điều kiện phải thường xuyên đối phó với chiến tranh phá hoại nhiều mặt..., chúng ta sẽ không có đời sống tương đối ổn định như ngày nay. Làm chủ của cá nhân phát huy sức mạnh thể lực, trí tuệ, tài năng của những con người được giải phóng.
Chế độ làm chủ tập thể kết hợp sức mạnh của ba cấp làm chủ: trung ương, địa phương và cơ sở, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả nước. Làm chủ trong cả nước là điều kiện cơ bản để làm chủ ở địa phương và cơ sở. Sức mạnh của cả nước lại bắt nguồn từ các cơ sở và các địa phương. Cả nước làm chủ để tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của từng cơ sở và từng địa phương.
Thực tiễn cách mạng từ sau Đại hội V đến nay đem lại cho chúng ta nhiều bài học phong phú về việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể với tính cách vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng.
Việc thực hiện nhiều chủ trương đúng đắn trong quản lý kinh tế, với những mức độ khác nhau, đã làm nổi bật nguồn gốc sức mạnh động lực của chế độ làm chủ tập thể.
Những chủ trương ấy đều khẳng định một chân lý: nhân dân lao động giành quyền làm chủ không phải vì một mục đích nào khác mà vì lợi ích của chính mình. Các Mác đã diễn đạt chân lý ấy một cách sâu sắc: "Lý tưởng tách rời lợi ích là sẽ tự bôi nhọ mình". Chế độ làm chủ tập thể là chế độ duy nhất thực hiện được lợi ích bền vững của nhân dân lao động theo yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội: thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của toàn xã hội cũng như của mỗi thành viên bằng cách không ngừng phát triển sản xuất trên cơ sở làm chủ tập thể và một nền khoa học - kỹ thuật ngày càng cao.
Trong lĩnh vực kinh tế, chế độ làm chủ tập thể hình thành một cơ cấu lợi ích hợp lý. Đó là sự thống nhất lợi ích của xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích của cá nhân người lao động, trong đó lợi ích của xã hội là tối cao và lâu dài, lợi ích của tập thể là rất quan trọng, lợi ích của cá nhân người lao động là trực tiếp. Cả ba lợi ích kết hợp lại là động lực thúc đẩy người lao động sản xuất và công tác mỗi ngày một tốt hơn. Vì vậy, trong quản lý kinh tế, phải thường xuyên kết hợp hài hoà ba lợi ích. Cần phải khắc phục khuynh hướng tập trung quan liêu, nhấn mạnh một chiều lợi ích của toàn xã hội, coi nhẹ lợi ích của cá nhân, cũng như khuynh hướng cục bộ, bản vị, phường hội, cá nhân chủ nghĩa, chỉ lo vun vén lợi ích địa phương, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân, làm thiệt hại đến lợi ích cả nước.
Chế độ làm chủ tập thể cũng đòi hỏi và cho phép kết hợp hài hoà lợi ích của cả nước với lợi ích từng địa phương, từng cơ sở, trong đó lợi ích của cả nước là tối cao, lợi ích của địa phương là quan trọng, lợi ích của cơ sở là trực tiếp. Sự thống nhất lợi ích của ba cấp làm chủ rốt cuộc cũng là vì lợi ích của nhân dân lao động. Sự thống nhất ấy loại trừ tệ tập trung quan liêu cũng như bệnh địa phương, cục bộ, bản vị trong việc đáp ứng lợi ích của mỗi cấp. Bảo đảm lợi ích của cả nước phải vì lợi ích của địa phương và của cơ sở. Chăm lo đúng đắn lợi ích của địa phương và của cơ sở cũng phải vì lợi ích của cả nước.
Chế độ làm chủ tập thể không chỉ bảo đảm lợi ích của nhân dân lao động mà còn kết hợp chặt chẽ lợi ích với quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm. Ở đâu có lợi ích thì ở đó phải có quyền hạn để bảo đảm lợi ích được thực hiện. Nhưng lợi ích và quyền hạn phải đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm, cao nhất là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Có lợi ích mà không có quyền hạn thì không có cách nào để thực hiện được lợi ích. Có lợi ích và có quyền mà không có nghĩa vụ và trách nhiệm thì sinh ra đặc quyền, đặc lợi. Trong mọi trường hợp, mối quan hệ giữa lợi ích, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm đều phải được thể chế hoá thành chính sách, pháp luật, chế độ, quy tắc.
Để bảo đảm lợi ích của nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, không có cách nào khác là làm chủ tập thể.
Chế độ làm chủ tập thể là một động lực tổng hợp kết hợp động lực của cách mạng và động lực của khoa học, động lực vật chất và động lực tinh thần, động lực kinh tế, động lực chính trị và động lực văn hoá, động lực tổ chức và động lực tư tưởng, động lực của sức mạnh làm chủ của cộng đồng kết hợp với sức mạnh làm chủ của cá nhân, của sức mạnh làm chủ ở ba cấp cơ bản, của sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Nguồn gốc sâu xa của động lực ấy nằm trong sự thống nhất các lợi ích của chủ nghĩa xã hội.
Công tác quản lý kinh tế phải nắm vững quan điểm làm chủ tập thể, coi đó là nguyên tắc quan trọng nhất trong quản lý kinh tế, tạo ra cho được sự kết hợp hài hoà các lợi ích, trên cơ sở đó, phát huy sức mạnh động lực của chế độ làm chủ tập thể trên tất cả các mặt, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và vững chắc theo những quy luật của chủ nghĩa xã hội.
II- XÂY DỰNG CƠ CẤU KINH TẾ CÔNG - NÔNG NGHIỆP
Chế độ làm chủ tập thể có cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, làm cơ sở vật chất, thể hiện và bảo đảm về mặt kinh tế bản chất, mục đích và động lực của nó.
Trong quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, công nghiệp và nông nghiệp gắn với nhau thành một cơ cấu ngay từ đầu, các cơ sở của kinh tế trung ương cũng như kinh tế địa phương cùng phát triển trong sự chuyên môn hoá, hợp tác và liên hiệp sản xuất chặt chẽ, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quyện vào nhau trong một thể thống nhất, kinh tế kết hợp với quốc phòng, phân công lao động trong nước đi liền với mở rộng hợp tác quốc tế.
Quan hệ cơ cấu giữa công nghiệp và nông nghiệp vốn là một thực tế khách quan từ xa xưa, khi loài người ra khỏi thời kỳ hái lượm, bắt đầu trồng trọt và chăn nuôi để có ăn, có mặc. Con người làm đất bằng công cụ thô sơ nhất đã gắn liền trong một động tác sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.
Trong tiến trình lịch sử, công nghiệp luôn luôn có tác dụng quyết định; những biến đổi về chất lượng của công nghiệp đánh dấu những bước phát triển của loài người, từ đồ đá đến đồ đồng, đồ sắt, từ các công cụ thô sơ đến máy móc đại công nghiệp. Gắn liền với công nghiệp và được sự thúc đẩy của công nghiệp để phát triển, nông nghiệp luôn luôn có vai trò trọng yếu trong việc bảo đảm các nhu cầu ăn, mặc, ở ngày càng cao của con người, cung cấp lao động, nguyên liệu và thị trường cho công nghiệp.
Các chế độ nô lệ, phong kiến và nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa đã khiến cho cánh kéo giữa công nghiệp và nông nghiệp mở rộng, thành thị và nông thôn tách rời và đối lập với nhau. Quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp là tồn tại khách quan, không xoá bỏ được, song quan hệ ấy diễn ra tự phát qua thị trường, với nhiều sự mất cân đối, bất hợp lý, và bị chế độ người bóc lột người bóp méo. Trước khi có chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, con người chưa làm chủ được quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa là quá trình giai cấp tư sản trên đường hình thành đã tước đoạt tư liệu sản xuất của những người lao động, bóc lột nhân dân trong nước và ngoài nước, tích luỹ tiền tệ đến mức biến nó thành tư bản, đồng thời vào khoảng thời gian đó đã diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, dẫn đến nền đại công nghiệp cơ khí.
Từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ động gắn ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành cơ cấu, theo đúng quy luật đã được thể hiện thành đường lối của Đảng, là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Sự gắn bó công nghiệp và nông nghiệp thành cơ cấu chứng tỏ khả năng của công nhân và nông dân lao động nước ta cùng nhau làm chủ tập thể để xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Công nghiệp nặng nhất thiết phải được ưu tiên phát triển, chỉ có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tạo ra cái mà chúng ta thiếu nhất và cần nhất để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, là nền đại công nghiệp cơ khí đủ sức trang bị kỹ thuật hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế, có tác dụng thúc đẩy việc xác lập và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, bồi dưỡng những con người mới phù hợp với nền sản xuất lớn hiện đại. Song, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng phải được thực hiện một cách hợp lý, từng chặng đường tập trung vào những ngành công nghiệp nặng nào, làm công nghiệp nặng với quy mô và mức độ đến đâu, là phải dựa trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, và trong chặng đường đầu tiên, trước hết phải nhằm thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, từ đó mà công nghiệp nặng có nguồn vốn, có lao động, có lương thực, thực phẩm cho công nhân, có thiết bị, nguyên liệu cho nhà máy, có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong chặng đường đầu tiên hiện nay, nông nghiệp và công nghiệp nhẹ có khả năng lớn nhất về thu hút để tận dụng lao động xã hội và sử dụng đất đai cùng nhiều tài nguyên của đất nước, làm ra những sản phẩm trực tiếp thoả mãn nhu cầu đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Song, mỗi bước tiến của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ đều diễn ra dưới tác động của công nghiệp nặng, và đều nhằm tăng cường thêm cơ sở cho sự phát triển công nghiệp nặng.
Trong quan hệ giữa công nghiệp nặng với nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, vai trò ưu tiên hợp lý của công nghiệp nặng cũng như vai trò cơ sở của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ làm điều kiện cho nhau, và sự gắn bó thành cơ cấu như vậy là quy luật tiến lên của nền kinh tế.
Trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, chúng ta phải phát huy động lực làm chủ tập thể để sử dụng hợp lý vốn quý nhất và tiềm năng kinh tế lớn nhất là lao động và đất đai, sắp xếp cho mọi người lao động đều có việc làm, mọi đất đai đều được khai thác. Chế độ làm chủ tập thể cho phép đưa ngay nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tiến hành sản xuất và phân phối sản phẩm nông nghiệp theo kế hoạch của cả nước, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và ứng dụng nhiều thành quả khoa học, kỹ thuật tiên tiến trong nông nghiệp, hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và người nông dân mới. Phân bố lại lao động trong từng địa phương và trong cả nước để thâm canh, tăng vụ đi đôi với mở rộng diện tích, khai thác cả đồng bằng, trung du, miền núi, miền biển, gắn liền chuyên môn hoá với kinh doanh tổng hợp trong nông nghiệp, phát triển mạnh cả trồng trọt và chăn nuôi, kết hợp chặt chẽ nông, lâm, ngư nghiệp, chúng ta phấn đấu trong chặng đường đầu tiên này sử dụng hết 10 triệu hécta đất nông nghiệp và 15 triệu hécta đất rừng, gieo trồng bình quân hai vụ trên đất trồng cấy hằng năm, bố trí khoa học cơ cấu cây trồng và vật nuôi, để mỗi hécta đất mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Những kết quả thực tế mấy năm nay theo phương hướng trên đây cho chúng ta thấy rõ khả năng đưa nông nghiệp vươn lên làm tròn cả ba nhiệm vụ: bảo đảm ăn, mặc, ở cho nhân dân, đặc biệt là đủ lương thực và có dự trữ, cung ứng nguyên liệu nông sản cho công nghiệp hàng tiêu dùng, và tạo ra nguồn xuất khẩu quan trọng, gồm những mặt hàng nhiệt đới có giá trị cao của hàng triệu hécta cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, hàng chục triệu hécta rừng, hàng ngàn cây số bờ biển và mặt biển.
Một nền nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa như vậy hoàn toàn không thể do tự thân nông dân và nông nghiệp một cách đơn độc, mà nhất thiết phải là sản phẩm của cả công nhân và nông dân, của cả công nghiệp và nông nghiệp, gắn bó với nhau trong một cơ cấu hợp lý.
Phát triển nông nghiệp phải kết hợp chặt chẽ với phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng, bao gồm công nghiệp thực phẩm và các ngành công nghiệp nhẹ. Công nghiệp hàng tiêu dùng có vai trò rất quan trọng, sử dụng được nhiều lao động xã hội, qua chế biến làm tăng thêm gấp nhiều lần giá trị nông sản, tạo ra những sản phẩm cuối cùng sẵn sàng phục vụ người tiêu thụ, nhờ đó có nguồn hàng trao đổi với nông dân và kích thích sản xuất nông nghiệp, cung ứng nhiều mặt hàng xuất khẩu, giúp thu những khoản lớn cho ngân sách nhà nước, giảm bội chi, tiến tới ổn định tài chính và tiền tệ. Mấy năm nay, công nghiệp hàng tiêu dùng tăng chậm, những năng lực sản xuất hiện có chỉ dùng được chừng một nửa, chất lượng nhiều loại sản phẩm giảm sút, những thiếu sót đó đang trực tiếp là trở ngại đối với việc phát triển nông nghiệp, gây thêm khó khăn cho việc Nhà nước nắm hàng và làm chủ thị trường, làm cho xuất - nhập khẩu chậm phát triển, và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Ngay hiện nay, chúng ta hoàn toàn có khả năng và nhất thiết phải sớm giải quyết các vấn đề về cung ứng năng lượng và nguyên liệu, về sắp xếp lại sản xuất và đổi mới cơ chế quản lý để phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng cả chiều rộng và chiều sâu, từ công nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương đến các ngành, nghề tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp ở nông thôn và thành thị. Tăng được khoảng từ 20 đến 25% sản lượng hàng tiêu dùng, thì thế và lực về kinh tế của Nhà nước có sự thay đổi rõ rệt.
Trong chặng đường đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, tập trung sức đẩy mạnh nông nghiệp, tích cực phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng, là tăng cường cơ sở cho việc xây dựng công nghiệp nặng. Mặt khác, để đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và tăng nhanh công nghiệp hàng tiêu dùng, phải luôn luôn nắm vững và phát huy vai trò ưu tiên hợp lý của công nghiệp nặng, sử dụng thật tốt các năng lực công nghiệp nặng sẵn có, xây dựng thêm nhiều cơ sở công nghiệp nặng cần thiết, cung ứng thêm điện, than, xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, hoá chất cơ bản, các loại thiết bị, máy móc, công cụ và phụ tùng, các loại vật liệu xây dựng... Phải phát triển thích đáng và nâng cao chất lượng những mặt hàng công nghiệp nặng xuất khẩu, để có thêm ngoại tệ nhập kỹ thuật và vật tư cho nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và bản thân công nghiệp nặng. Ngành giao thông vận tải phải được chấn chỉnh và tăng cường về mọi mặt, bằng cách thực hiện rộng rãi chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm, để phục vụ nhanh chóng và an toàn cho sản xuất, xây dựng, quốc phòng và đời sống nhân dân. Những năm sắp tới, phải đặc biệt chú trọng đẩy mạnh công nghiệp năng lượng, giao thông vận tải, là hai bộ phận chủ yếu của kết cấu hạ tầng bảo đảm cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời là hai khâu yếu nổi bật của nền kinh tế.
Trong khi hướng công nghiệp nặng trước hết nhằm thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng, phải xúc tiến mọi công tác chuẩn bị cần thiết, như làm luận chứng kinh tế - kỹ thuật, tranh thủ sự hợp tác và giúp đỡ của các nước anh em và các nước khác về xây dựng công nghiệp nặng, thiết kế các công trình, bồi dưỡng công nhân và cán bộ. Chúng ta phải luôn luôn chủ động, tận dụng mọi thời cơ và khả năng để bắt tay xây dựng một số công trình công nghiệp nặng then chốt, đặc biệt là cơ khí và luyện thép. Không có thép và cơ khí thì không có công nghiệp nặng, không có chủ nghĩa xã hội. Chúng ta kiên quyết làm cơ khí lớn và cơ khí nặng, đẩy mạnh khai thác dầu và khí, hết sức phấn đấu làm cho dầu khí sớm trở thành một chủ bài kinh tế, mở thêm một số nhà máy nhiệt điện và thuỷ điện tiếp theo Sông Đà, Phả Lại và Trị An, xây dựng cơ sở luyện kim nửa triệu tấn và hàng triệu tấn thép đi đôi với một số cơ sở cỡ mươi vạn tấn, phát triển luyện kim mầu, công nghiệp hoá chất và vật liệu xây dựng. Tóm lại, ngay trong chặng đường đầu tiên, từ kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, đã bắt đầu tiến hành từng bước những công việc sẽ trở thành nội dung chủ yếu của chặng đường tiếp theo, là xây dựng hệ thống công nghiệp nặng phát triển, làm nòng cốt cho cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại.
Trong cơ cấu kinh tế, vai trò nền tảng vô cùng quan trọng thuộc về các đơn vị cơ sở. Không có cơ sở thì không có công nghiệp và nông nghiệp, không có kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, không có sự tồn tại của nền kinh tế. Đơn vị cơ sở là tiền tuyến của mặt trận kinh tế, nơi sản xuất mọi của cải vật chất, nơi tạo ra sản phẩm thặng dư và nguồn vốn tích luỹ, nơi quần chúng lao động hằng ngày trực tiếp tiến hành ba cuộc cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Trong công nghiệp, đơn vị cơ sở là xí nghiệp hoặc xí nghiệp liên hợp. Trong nền nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đơn vị cơ bản là huyện, gắn liền với hợp tác xã. Với chừng 20 vạn dân trên diện tích chừng hai vạn hécta canh tác, huyện có vai trò quan trọng có tính lịch sử, là địa bàn thích hợp để hội tụ lực lượng từ các hợp tác xã, phân công mới lao động, sử dụng tốt đất đai, mở mang các ngành, nghề, gắn liền trồng trọt, chăn nuôi và chế biến nông sản, kết hợp lực lượng của hợp tác xã và của huyện với lực lượng từ tỉnh và trung ương đưa về, tạo ra một sức mạnh tổng hợp, phát triển kinh tế, xây dựng văn hoá, bồi dưỡng con người mới, củng cố quốc phòng, bảo đảm đời sống của nhân dân và tái sản xuất mở rộng. Theo ý nghĩa ấy, chúng ta nói chuyện vừa là cơ sở, vừa là địa phương, vừa là trung ương.
Một nhiệm vụ cơ bản của quản lý kinh tế là ra sức củng cố xây dựng tốt chừng 400 xí nghiệp lớn và tổ chức liên hiệp sản xuất trong công nghiệp, cùng với chừng 400 huyện nông - công nghiệp. Bằng cách đó, tăng nhanh sản phẩm xã hội, làm chủ tận gốc hàng và tiền, tạo ra cái cốt vững chắc cho nền kinh tế. Muốn vậy, phải tổ chức lại sản xuất thật hợp lý trong từng xí nghiệp và từng huyện, đưa khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh của từng cơ sở để đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Mở rộng quyền làm chủ cho cơ sở, tăng cường tính năng động, linh hoạt của cơ sở, tập trung sức của các ngành, các cấp để chỉ đạo và phục vụ cơ sở, sớm xoá bỏ những cơ sở yếu kém, sớm chuyển những cơ sở trung bình thành tiên tiến, sớm tổng kết và phổ biến kinh nghiệm của các cơ sở xuất sắc, đó là phương hướng lớn của việc đổi mới quản lý kinh tế.
Chế độ làm chủ tập thể ở ba cấp cơ bản đương nhiên dẫn đến cơ cấu kinh tế liên kết hợp lý các đơn vị cơ sở thành kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương, làm cho nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa nảy sinh từ toàn thân nền kinh tế, từ gốc đến ngọn.
Kinh tế trung ương bao gồm những cơ sở quan trọng nhất của cả nước, là những đơn vị đầu đàn của công nghiệp nặng, công nghiệp hàng tiêu dùng và nông nghiệp, kỹ thuật tiên tiến, quy mô lớn, giúp cho các ngành kinh tế - kỹ thuật sớm hình thành và trở nên trụ cột của nền sản xuất lớn, đi vào chuyên và tinh, vận dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại. Tích cực củng cố những ngành kinh tế - kỹ thuật đã có và ra sức xây dựng một cách vững chắc những ngành kinh tế - kỹ thuật mới trong phạm vi cả nước, coi trọng trước hết những ngành trọng yếu, đặc biệt chú ý liên kết các ngành gần nhau và bổ sung cho nhau, nhất là liên kết công - nông nghiệp, đó là một nhiệm vụ có tính chiến lược, xét trước mắt cũng như lâu dài, đòi hỏi sự cộng tác và phối hợp chặt chẽ của các bộ cùng các cấp chính quyền tỉnh, thành và quận, huyện.
Kinh tế địa phương bao gồm các cơ sở quy mô vừa và nhỏ, các cơ sở chế biến nông sản, lâm sản, hải sản do địa phương sản xuất, các cơ sở công nghiệp nhẹ và vật liệu xây dựng có ý nghĩa địa phương, một số cơ sở làm công cụ và tư liệu sản xuất sử dụng ở địa phương. Kinh tế địa phương tận dụng mọi tài nguyên và thế mạnh tại chỗ, đạt hiệu quả khu vực cao nhất, sản xuất nhiều mặt hàng đa dạng, phụ trách phân phối và bảo đảm đời sống cho toàn bộ dân cư ở địa phương, tạo ra những màu sắc phong phú ở từng vùng cho nền kinh tế và cho xã hội, kết hợp kinh tế với quốc phòng, đảm bảo hậu cần tại chỗ, đóng góp ngày càng lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà.
Bằng sự phân định hợp lý cơ cấu và sự phát triển đồng thời kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, lồng được vào nhau cả ba giai đoạn hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, vận dụng đúng đắn các kỹ thuật thô sơ và hiện đại, các quy mô lớn, vừa và nhỏ, kết hợp tốt chuyên môn hoá, hợp tác và liên hiệp sản xuất, tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa một cách hợp lý nhất, chủ động nhất.
Quy luật về cơ cấu kinh tế đã được thể hiện thành đường lối trong các nghị quyết Đại hội lần thứ IV, lần thứ V của Đảng và trong nhiều nghị quyết Trung ương. Sự chậm trễ và những hiện tượng lệch lạc trong việc xây dựng cơ cấu kinh tế ấy đã gây tổn thất, làm lãng phí những năm tháng quý báu lẽ ra phải được tranh thủ khẩn trương, ràng buộc những năng lực to lớn lẽ ra phải được phát huy mạnh mẽ, gây thêm sự trì trệ trong sản xuất, sự rối ren trong phân phối, lưu thông và những hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế, xã hội.
Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý gắn bó với nhau thành một tồn tại trong cơ cấu kinh tế quyết định cơ chế quản lý, và cơ chế quản lý phục vụ cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự hình thành cơ cấu kinh tế mới. Phải tích cực sắp xếp và tổ chức lại nền sản xuất xã hội, bắt đầu từ các cơ sở, bố trí cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, nhằm vào đó và dựa trên nền tảng đó mà đổi mới cơ chế quản lý, như vậy kế hoạch nhà nước và các chính sách đòn bẩy mới phát huy được tác dụng mong muốn. Mặt khác, cần chủ động xác định cơ chế quản lý thích hợp, để vận dụng cơ chế ấy mà xây dựng cơ cấu kinh tế mới, theo đúng đường lối của Đảng. Những khâu quan trọng, những mặt yếu kém trong cơ cấu kinh tế phải là những trọng điểm về đổi mới cơ chế quản lý. Theo tinh thần đó, đổi mới quản lý kinh tế hiện nay là làm cho mọi cơ sở đều có quyền chủ động sản xuất, kinh doanh, làm cho cấp huyện có đủ quyền làm chủ để xây dựng thành công huyện nông - công nghiệp, làm cho kinh tế địa phương phát triển mạnh, các ngành kinh tế - kỹ thuật, trước mắt là các ngành then chốt như cơ khí, năng lượng, giao thông vận tải, luyện kim, hoá chất được xây dựng tích cực, các cơ sở cũng như các ngành, các địa phương đều đi nhanh vào khoa học, kỹ thuật, làm ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt, bảo đảm được đời sống nhân dân và có tích luỹ để công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Kế hoạch hoá phải thực sự đổi mới, hàng loạt chính sách đòn bẩy phải được kịp thời xác định và cải tiến, để xử lý tốt các mối quan hệ về sản xuất và phân phối, về thu nhập và đời sống, theo phương hướng hình thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hợp lý, từ chỗ tháo gỡ những vướng mắc, khắc phục những khó khăn trước mắt, tiến lên tạo thế cân đối mới và nhịp độ phát triển cao cho nền kinh tế quốc dân.

III- KẾ HOẠCH GẮN LIỀN VỚI HẠCH TOÁN KINH TẾ
VÀ KINH DOANH XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Nền kinh tế thiết lập trên cơ sở công hữu tư liệu sản xuất cũng như toàn bộ chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời một cách có kế hoạch. Vừa kế hoạch hoá sự phát triển của từng đơn vị kinh tế cơ sở, của từng địa phương và từng ngành, vừa kế hoạch hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tổ chức hợp lý mọi lực lượng lao động để sử dụng có hiệu quả mọi đối tượng lao động và tư liệu lao động, đứng trên tầm nhìn và quy mô toàn xã hội mà huy động tất cả sức mạnh vật chất và tinh thần của chế độ, tập trung hoàn thành những nhiệm vụ và đạt những mục tiêu của cả nước, đó là một đặc điểm bản chất và một ưu thế tuyệt đối của chủ nghĩa xã hội, mà chủ nghĩa tư bản không thể có được. Chế độ làm chủ tập thể tư liệu sản xuất cho phép và đòi hỏi phát huy ngay từ đầu bản chất và ưu thế ấy, kế hoạch hoá sự phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng với trình độ tự giác và chủ động ngày càng cao cơ cấu kinh tế  công - nông nghiệp, cũng như toàn bộ xã hội xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch hoá như vậy bảo đảm việc xây dựng toàn diện chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới trong một thời gian lịch sử tương đối ngắn, khiến cho xã hội tránh được những cơn khủng hoảng là căn bệnh đang ngày càng trầm trọng của hệ thống tư bản chủ nghĩa quốc tế.
Ở nước ta, trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, mặc dầu nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa rộng khắp trong cả nước, chúng ta vẫn dựa trên quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động đã được xác lập, phát huy vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, luôn luôn nắm vững kế hoạch, coi đó là trung tâm của hệ thống quản lý kinh tế, sử dụng kế hoạch để thúc đẩy sản xuất phát triển, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, và tiến hành công nghiệp hoá nước nhà.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cho thấy kế hoạch hoá là một trong những vấn đề cơ bản và cấp bách, nhưng lại khó khăn và phức tạp của công cuộc vận dụng các quy luật kinh tế, phát huy những động lực nhiều mặt của chế độ mới, tạo ra nhân tố quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, tức là một năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Kế hoạch là cương lĩnh kinh tế, xã hội của Đảng. Kế hoạch nhà nước bố trí cơ cấu, những cân đối, những tỷ lệ, những chỉ tiêu kinh tế thể hiện sự lựa chọn chiến lược của nền kinh tế quốc dân. Theo tinh thần ấy, kế hoạch hoá là nắm tất cả của cải, lao động, đất đai và các tài nguyên khác, sử dụng tốt mọi cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực sản xuất, làm ra nhiều của cải cho xã hội. Từ những công trình xây dựng lớn huy động hàng chục vạn người và hàng tỷ đồng vốn, những xí nghiệp quốc doanh hàng mấy ngàn công nhân, cho đến hoạt động sản xuất của từng người nông dân và thợ thủ công cá thể, đều nằm trong kế hoạch hoặc được thu hút vào quỹ đạo của kế hoạch. Từ việc đáp ứng những nhu cầu to lớn về nhiều mặt của toàn xã hội, việc chuẩn bị lâu dài cho các thế hệ mai sau, đến việc bảo đảm đời sống hằng ngày cho từng gia đình, việc nuôi dạy các cháu nhỏ, việc chăm sóc các cụ già, đều được tính toán trong các cân đối của kế hoạch.
Kế hoạch phải là đòn bẩy mạnh mẽ nhất trong hệ thống đòn bẩy kinh tế, không chỉ là pháp lệnh bắt buộc, mà thực sự chứa đựng ngay trong đó một sức khuyến khích, cổ vũ to lớn đối với các đơn vị cơ sở, các địa phương, các ngành và đối với mỗi người lao động. Như vậy, kế hoạch vừa tạo ra sức mạnh của pháp luật, của tổ chức, vừa tạo ra sức mạnh của sự khuyến khích bằng lợi ích vật chất và sự động viên tinh thần cách mạng, là công cụ sắc bén để phát huy sức mạnh tổng hợp của chế độ làm chủ tập thể trong phong trào quần chúng xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kế hoạch phải là bản tổng hợp những phương án kinh tế - khoa học - kỹ thuật được lựa chọn chu đáo, bảo đảm đưa nhanh thành quả khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện và bắt buộc mọi cơ sở, mọi người lao động đều làm việc theo những tiêu chuẩn, những định mức kinh tế và khoa học - kỹ thuật tiến bộ.
Kế hoạch phải bao quát nội dung ba cuộc cách mạng, và về kinh tế, phải quán xuyến được các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, gắn liền sản xuất với phân phối, lưu thông và tiêu dùng, gắn liền thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Để đạt được những yêu cầu trên đây, điều cơ bản là: phù hợp với ba cấp cơ bản làm chủ tập thể, phải xây dựng cho được ba cấp kế hoạch cơ bản, cả nước (trong đó có các ngành), địa phương và đơn vị cơ sở, mỗi cấp kế hoạch đều do cả ba cấp cùng làm chủ theo nội dung và phương pháp kế hoạch hóa thích hợp. Bao cấp kế hoạch là một tồn tại khách quan, một thực thể chính trị, kinh tế, xã hội thống nhất. Trung tâm của công tác quản lý phải được xác định là hệ thống kế hoạch từ trung ương đến cơ sở, trong đó kế hoạch cơ sở, kế hoạch huyện, kế hoạch địa phương có vai trò rất quan trọng.
Nói ba cấp kế hoạch, không phải là một kế hoạch quyết định từ một trung tâm rồi phân ra từng phần để giao xuống cho từng cấp dưới, hoặc ngược lại, từng cơ sở tùy ý xoay xở, bất chấp kế hoạch của các cấp trên. Ba cấp kế hoạch làm chủ tập thể là mỗi cấp thực sự làm chủ kế hoạch, xây dựng, cân đối, bảo vệ và thực hiện kế hoạch của mình, từng cơ sở và từng địa phương được giao rộng rãi quyền hạn để căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ và những chỉ tiêu chủ yếu của cả nước, mà khai thác mọi tiềm năng của đơn vị, sản xuất, kinh doanh năng động, đạt hiệu quả cao, bảo đảm phân phối hợp lý, cải thiện đời sống của người lao động, đáp ứng nhu cầu tái sản xuất mở rộng của đơn vị, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà.
Trong khi nêu bật sự cần thiết phải mở rộng quyền hạn làm chủ kế hoạch của các đơn vị cơ sở, của cấp huyện, của các địa phương và các ngành, chúng ta cũng nhấn mạnh một cách tương ứng sự cần thiết phải nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của tất cả các cấp ấy, chẳng những đối với bản thân sự phát triển của đơn vị mình, đối với đời sống của những người lao động trong đơn vị, mà điều rất quan trọng là đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, đối với đời sống của nhân dân cả nước. Dù cho có quyền chủ động rộng rãi đến đâu, các đơn vị cơ sở vẫn là những tế bào và các địa phương, các ngành vẫn là những bộ phận hợp thành của một cơ thể kinh tế quốc dân thống nhất. Vì cả nước, cùng cả nước, đó là phương châm hành động không chỉ của những thành phố lớn, những ngành kinh tế then chốt, mà của cả tất cả mọi cơ sở, mọi người lao động làm chủ tập thể. Chính vì vậy, trong ba cấp kế hoạch, chúng ta nêu cao vị trí ưu tiên và tác dụng quyết định của kế hoạch cả nước. Được xây dựng từ đơn vị cơ sở nhưng không phải là số cộng đơn thuần của các kế hoạch cơ sở, kế hoạch cả nước phải xác định phương hướng, mục tiêu và những nhiệm vụ chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội, phải chỉ ra chính xác những ngành và những địa bàn trọng điểm để tập trung ưu tiên các lực lượng cả nước, phải thực sự tổng hợp kế hoạch của các cấp, các ngành thành các cân đối lớn, các chỉ tiêu chủ yếu và các biện pháp thực hiện. Làm hết sức mình để góp vào việc hoàn thành kế hoạch cả nước, đó là nghĩa vụ, lương tâm và vinh dự của mỗi đơn vị, mỗi người lao động làm chủ tập thể.
Trong hệ thống các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, kế hoạch hằng năm, hằng quý ở các cấp (cơ sở có thêm kế hoạch hằng tháng, hằng tuần) giữ vai trò chủ yếu, đó là những công cụ quản lý tác chiến, phải được cơ động điều chỉnh kịp thời theo những biến động của tình hình kinh tế- xã hội. Phát hiện và tận dụng mọi khả năng, bồi dưỡng những nhân tố tích cực khi vừa xuất hiện, khắc phục những khó khăn khi mới nảy sinh, chính là nhờ sự điều chỉnh linh hoạt này. Đồng thời, kế hoạch 5 năm, có chia ra từng năm, giữ vai trò ngày càng quan trọng và thiết thực, và từng bước tiến lên trở thành hình thức kế hoạch hóa chủ yếu. Trước mắt, cần khẩn trương xây dựng kế hoạch 5 năm 1986-1990. Xác định chiến lược kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ và của chặng đường đầu tiên, lập quy hoạch phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, xây dựng kế hoạch dài hạn, là những khâu cơ bản của quá trình kế hoạch hóa, cần được xúc tiến một cách nghiêm túc, để cụ thể hóa đường lối của Đảng, vận dụng các quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội, vạch ra triển vọng và hướng dẫn cả quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tương đối dài.
Công tác kế hoạch hóa ở tất cả các cấp phải là công tác kinh tế gắn liền với cuộc sống sinh động và thực trạng kinh tế - xã hội. Trong công tác kế hoạch hóa, phải sử dụng những hình thức phong phú để thu hút sự tham gia tích cực của đội ngũ cán bộ kinh tế và khoa học - kỹ thuật, của đông đảo nhân dân lao động, làm cho kế hoạch ở mỗi cấp thật sự là một công trình của trí tuệ tập thể.
Hạch toán kinh tế là phương pháp quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa áp dụng đối với các cơ sở và các tổ chức sản xuất, kinh doanh, từng đơn vị nắm vững kế hoạch là trung tâm, thực hiện quyền làm chủ, tính toán hiệu quả kinh tế, động viên mọi lực lượng của đơn vị, phát huy mọi nhân tố tăng trưởng, khai thác mọi khả năng qua liên kết trong nước và qua xuất - nhập khẩu, để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình một cách tốt nhất, tự chủ về tài chính, tự trang trải mọi chi phí, có nhiều lợi nhuận, và phân phối lợi nhuận ấy một cách đúng đắn cho cả ba lợi ích, của xã hội, của đơn vị và của từng người lao động. Không phải là hạch toán kinh tế nếu không có đủ những yếu tố nói trên, như kế hoạch, tự chủ về tài chính, phân phối thỏa đáng cho cả ba lợi ích. Muốn hạch toán kinh tế, phải có định mức, tiêu chuẩn, phải thống kê, phải tính hiệu quả đến nơi đến chốn. Hạch toán kinh tế không phải là hạch toán thương nghiệp.
Kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với các cơ sở, các tổ chức, các ngành sản xuất, kinh doanh chính là thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Kinh doanh xã hội chủ nghĩa còn bao hàm cả cách nghĩ, cách làm mới mẻ của con người làm chủ tập thể, mà đặc trưng là luôn luôn nhạy cảm về hiệu quả kinh tế. Mọi cấp quản lý, mọi người quản lý, từ Hội đồng Bộ trưởng, các đồng chí đứng đầu các ngành và các địa phương, các cán bộ tham mưu, cán bộ tác chiến trên mặt trận kinh tế, cho đến từng người lao động, mỗi người trên chức trách và công việc cụ thể của mình, đều phải thấm nhuần tư tưởng kinh doanh xã hội chủ nghĩa và biết cách kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước là tổng tham mưu về kinh doanh xã hội chủ nghĩa, và kế hoạch nhà nước chính là phương án kinh doanh xã hội chủ nghĩa của cả nước.
Kế hoạch không gắn với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì chỉ là sản phẩm chủ quan của những cơ quan quản lý quan liêu, xa cuộc sống; hạch toán kinh tế không lấy kế hoạch làm trung tâm thì mất đi cái bản chất, cái linh hồn của nó, không còn là hạch toán kinh tế mà chỉ là sự xoay xở phường hội; kinh doanh thoát ly kế hoạch cũng có nghĩa là thoát ly phương hướng xã hội chủ nghĩa và trở thành sự đề cao vai trò chi phối của quy luật giá trị, của thị trường.
Sử dụng những phương pháp, những hình thức kế hoạch hóa cụ thể, xác định những chính sách đòn bẩy kinh tế thỏa đáng để thực hiện việc gắn liền kế hoạch, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa phù hợp với chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta là phương hướng đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch hóa của chúng ta.
Phương hướng ấy nhìn về lâu dài cũng như trước mắt là khắc phục bệnh quan liêu, bao cấp, khắc phục khuynh hướng chạy theo quy luật thị trường tự do, chống tệ bản vị, vun vén cho những lợi ích cục bộ hẹp hòi. Phương hướng ấy là mạnh dạn mở rộng quyền hạn, lợi ích và trách nhiệm cho các cấp dưới, trước nhất là cho các đơn vị cơ sở, các xí nghiệp, cho huyện, thực sự để cho cơ sở tự chủ tài chính, thực sự nâng cao quyền chủ động sản xuất, kinh doanh cho các địa phương và các ngành. Là mạnh dạn khuyến khích đích đáng lợi ích vật chất của người lao động, xem nó là một động lực rất quan trọng trong tổng thể các động lực vật chất và tinh thần của chế độ làm chủ tập thể. Là phát huy sức mạnh của từng người, khuyến khích sáng kiến cá nhân, đi đôi với phát huy sức mạnh của tập thể.
Mở rộng sự làm chủ cho cơ sở, khuyến khích lợi ích vật chất của người lao động và giải phóng sức sáng tạo của từng người lao động đi đôi với phát huy sức mạnh của cộng đồng, làm cho quần chúng hăng hái, phấn khởi, đưa nhân dân lao động đi vào khoa học - kỹ thuật, làm ăn có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, chọn lọc cán bộ và bồi dưỡng tài năng, tạo điều kiện thuận lợi để cho trật tự xã hội chủ nghĩa được củng cố, pháp chế và kỷ luật có hiệu lực, phát triển sản xuất, thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng.
Mở rộng quyền làm chủ về kinh tế của các cấp, các ngành, rà lại điều kiện cần thiết để trung ương tập trung sức nắm vững các cân đối lớn, các khâu chủ yếu của tái sản xuất xã hội, các công trình xây dựng quan trọng nhất, các sản phẩm chiến lược, các chính sách, chế độ quản lý có ý nghĩa toàn quốc. Nhà nước trung ương phải nắm vững những khâu then chốt của nền kinh tế quốc dân nhằm ba mục đích, một là để chỉ đạo phương hướng và động thái của toàn bộ nền kinh tế, hai là để đáp ứng những nhu cầu mà trung ương trực tiếp phụ trách, và ba, điểm này rất quan trọng, là nắm vững những khâu then chốt để bảo đảm mở rộng quyền làm chủ của cơ sở và của địa phương và của người lao động.
Trong điều kiện hiện nay, ở mỗi đơn vị, kế hoạch phải vận dụng được bốn nguồn khả năng vật chất là: khả năng mà đơn vị tự có, khả năng do liên kết kinh tế, khả năng do xuất -nhập khẩu và khả năng do cấp trên cung ứng. Kế hoạch phải phát huy được sức mạnh to lớn của việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật, của việc đổi mới quản lý kinh tế, của việc thực hành triệt để tiết kiệm, và của việc khơi dậy phong trào cách mạng làm chủ tập thể của nhân dân.

IV- TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC - KỸ THUẬT
VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra rộng khắp trên thế giới, tạo ra những hệ thống máy móc tự động, những nguồn năng lượng, nguyên liệu mới, những công nghệ sản xuất, phương tiện điều khiển kinh tế, quản lý xã hội với chất lượng và hiệu quả to lớn chưa từng thấy. Cách mạng khoa học - kỹ thuật đang thâm nhập mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống con người, mang lại những bước tiến kỳ diệu.
Khoa học đang thực sự cùng với kỹ thuật xuất hiện trong kinh tế như một lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu khoa học - kỹ thuật không nhất thiết phải vật chất hóa thành những thiết bị, công cụ, vật tư có khi rất đắt tiền, mà một phần quan trọng được thể hiện trong sự hiểu biết tiên tiến, những quy trình hành động hợp quy luật thiên nhiên và xã hội, những cách thức sản xuất hiện đại trong công nghiệp, những biện pháp liên hoàn thâm canh tăng năng suất trong nông nghiệp, những tư tưởng mới mẻ, sáng tạo trong quản lý kinh tế. Nhiều thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật tiên tiến có thể thực hiện được ở những nước trình độ phát triển về kinh tế chưa cao.
Phát huy tính ưu việt của chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động và đội ngũ ngày càng đông đảo cán bộ khoa học - kỹ thuật với trình độ chính trị, văn hóa ngày càng được nâng cao, chúng ta có thể khai thác khả năng cực kỳ quan trọng đó của cách mạng khoa học - kỹ thuật. Chúng ta đặt cách mạng khoa học - kỹ thuật thành bộ phận then chốt của cách mạng xã hội chủ nghĩa và ra sức tạo cho nó những điều kiện vật chất, chính trị, xã hội để phát triển mạnh mẽ. Chúng ta phải nắm lấy ba loại quy luật - quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật tư duy - và do đó, phải phát triển đồng thời cả ba loại khoa học: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội; biến con người của xã hội mới thành con người khoa học - kỹ thuật.
Phương châm của chúng ta chỉ đạo cách mạng khoa học - kỹ thuật là nhanh chóng vươn lên làm chủ cho được những lĩnh vực khoa học và kỹ thuật cần thiết và có khả năng thực hiện với tinh thần: cái gì đất nước có nhu cầu thì ta phải làm chủ cho kỳ được. Phải phát huy năng lực sáng tạo to lớn của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, khuyến khích phát minh, sáng chế, lựa chọn những cái tiên tiến, chứ không đi theo con đường tiến lên từng bước, sử dụng những cái đã lạc hậu hoặc trung bình. Đi theo phương hướng này, chúng ta có thể tiếp cận với những thành tựu vào loại cao nhất, có nhiều trường hợp đi thẳng vào hiện đại. Chúng ta cũng sử dụng những thành tựu loại trung bình và vẫn còn sử dụng những phương tiện thủ công cần thiết. Song lao động thủ công làm chủ tập thể cũng nắm được và vận dụng nhiều thành tựu tiên tiến, như cách mạng sinh học, những quy trình tăng năng suất trồng trọt và chăn nuôi, những thao tác công nghệ hiện đại.
Một cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật như vậy rõ ràng không thể chỉ là công việc của những người lao động trí óc, của công tác nghiên cứu ở các viện, các trường, mà cơ bản phải là sự nghiệp của quần chúng đông đảo, phải thành phong trào thường xuyên và nếp quen làm việc của hàng chục triệu người lao động.
Vai trò then chốt của cách mạng khoa học - kỹ thuật gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí đủ sức trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, xây dựng hệ thống công nghiệp nặng, phát triển kết cấu kỹ thuật hạ tầng của nền kinh tế, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải. Do sự gắn liền như vậy, bước đi và cách làm của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chính là bước đi và cách làm của cách mạng khoa học - kỹ thuật.
Trong chặng đường trước mắt, trong khi tập trung sức đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn bằng một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, gắn liền làm một nông nghiệp, công nghiệp nhẹ với công nghiệp nặng, cách mạng khoa học - kỹ thuật phải nhìn xa tính trước, chuẩn bị điều kiện cho chặng đường công nghiệp hóa tiếp theo.
Một trong những vấn đề lớn nhất của công nghiệp hóa là tạo ra cho được nguồn tích lũy, nhất là nguồn vốn ban đầu. Chính ở đây, cách mạng khoa học - kỹ thuật tỏ rõ sức mạnh và tác dụng của nó trong việc khai thác lao động, đất đai, rừng, biển và những tài nguyên quý hiếm, trong việc nhanh chóng tạo ra khối lượng hàng xuất khẩu lớn, chất lượng tốt, giành được tín nhiệm trên thị trường quốc tế. Cách mạng khoa học - kỹ thuật làm nảy nở và phát triển tài năng của con người làm chủ tập thể.
Trên cơ sở nắm vững quy luật cách mạng khoa học - kỹ thuật, chúng ta cần phải làm sáng tỏ những phương hướng tổng quát và xác định những sự lựa chọn về khoa học - kỹ thuật đối với từng ngành, như cách mạng sinh học, cơ khí, điện tử, năng lượng, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng, giao thông vận tải... Sự lựa chọn này phải xuất phát đầy đủ từ tiềm năng của đất nước về từng ngành và phải sử dụng thích hợp những thành tựu tiên tiến. Đối với một vài ngành có ý nghĩa quyết định, như cơ khí, trung tâm thần kinh của nền kinh tế, cần phải chú ý sự lạc hậu ở đây sẽ gây ra sự lạc hậu về kỹ thuật của tất cả các ngành, và càng để sự lạc hậu kéo dài thì càng khó khắc phục. Do đó, cần phải sớm đưa mấy ngành có ý nghĩa quyết định đi thẳng vào kỹ thuật cao nhất.
Sự lựa chọn về phương hướng khoa học - kỹ thuật phải thống nhất với sự lựa chọn về phương hướng kinh tế - xã hội. Khoa học - kỹ thuật phải tối ưu về hiệu quả kinh tế, và kinh tế phải tiên tiến về trình độ khoa học - kỹ thuật. Phương hướng này phải được thực hiện trong những chương trình tổng thể kinh tế - khoa học - kỹ thuật - xã hội, làm nòng cốt cho các kế hoạch kinh tế quốc dân.
Khoa học - kỹ thuật không chỉ là căn cứ, là cơ sở của hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là yêu cầu từ bên trong của các hoạt động ấy. Công tác quản lý kinh tế phải đưa các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến vào nội dung và phương pháp kế hoạch hóa, các chính sách đòn bẩy, các hình thức tổ chức, để cho cơ chế quản lý mới vận dụng được khoa học - kỹ thuật như lực lượng sản xuất trực tiếp.
Như vậy là có hai mặt liên quan chặt chẽ với nhau: một mặt, nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật của quản lý, bảo đảm cho các quyết định về đầu tư, sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng được nhanh nhậy và đúng đắn. Mặt khác, hình thành một cơ chế quản lý thực sự thúc đẩy sản xuất bằng khoa học - kỹ thuật, nhờ đó, không ngừng hoàn thiện các sản phẩm, tiết kiệm tiêu hao vật chất, đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
Chúng ta đã có những điều kiện thuận lợi đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật đang tăng lên tương đối nhanh. Đội ngũ này gồm khoảng 85 vạn người, kể cả những cán bộ kỹ thuật trung cấp cùng với gần một triệu công nhân có nghề, sự phân bố đang được điều chỉnh theo hướng tăng cường cho cơ sở sản xuất. Nhiều cán bộ khoa học - kỹ thuật có tài năng và phẩm chất. Các tổ chức nghiên cứu và quản lý khoa học - kỹ thuật cũng phát triển nhanh, đã hình thành hệ thống từ trung ương đến xí nghiệp, hợp tác xã; trong chín năm qua, số cơ quan nghiên cứu tăng bốn lần, số trường đại học và cao đẳng tăng hơn hai lần. Công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng kỹ thuật đã có những thành tựu đáng mừng về nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, xây dựng và về điều tra cơ bản thiên nhiên. Hàng chục triệu người lao động ở nông thôn và thành thị, vượt qua biết bao khó khăn, đã phát huy nhiều sáng kiến đẩy mạnh sản xuất, ứng dụng những thành tựu tiên tiến của cách mạng khoa học - kỹ thuật.
Năng lực khoa học - kỹ thuật của cán bộ và nhân dân ta chưa được đánh giá đúng và sử dụng tốt, kể từ việc phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của quần chúng tại chỗ, tìm ra những biện pháp khoa học - kỹ thuật cụ thể và việc tập trung những lực lượng giải quyết các vấn đề phát triển khoa học- kỹ thuật của từng ngành, cho đến việc huy động tổng hợp toàn bộ đội ngũ, cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội, kết hợp với trí tuệ của những người lao động, xây dựng những quy hoạch và kế hoạch tổng thể cho nền kinh tế và xã hội.
Phương pháp kế hoạch hóa, các chính sách, chế độ quản lý và cách tổ chức làm việc của chúng ta chưa khuyến khích và bắt buộc mọi người ứng dụng khoa học - kỹ thuật, thậm chí có những trường hợp từ chối tiến bộ khoa học - kỹ thuật, duy trì lối làm ăn cũ kỹ nhưng vẫn kiếm lợi vì có cơ chế bao cấp. Chính sách đối với cán bộ khoa học, cán bộ kỹ thuật, như bồi dưỡng, giáo dục, tạo điều kiện và phương tiện làm việc, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, còn nhiều chỗ chưa thỏa đáng.
Phương hướng cơ bản của việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và cả quản lý khoa học - kỹ thuật là khắc phục những khuyết điểm trên đây, làm cho cơ chế quản lý mới thực sự mở đường cho khoa học - kỹ thuật trở thành bản chất bên trong của các quyết định kinh tế và là nhân tố tăng trưởng kinh tế; cán bộ khoa học, cán bộ kỹ thuật phải được đặt đúng vị trí của mình, nhất là được bố trí đúng ở cơ sở sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm, được đãi ngộ không phải chủ yếu theo bằng cấp và học vị, mà được trả lương và khen thưởng theo hiệu quả kinh tế - xã hội của lao động sáng tạo trong sản xuất và đời sống. Cơ chế đó cũng bảo đảm động viên sự tham gia của hàng chục triệu người lao động vào cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra hằng ngày.
V- LÀM CHỦ PHÂN PHỐI, LƯU THÔNG
Sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng là bốn khâu cơ bản của quá trình tái sản xuất xã hội, có quan hệ biện chứng với nhau. Sản xuất là gốc, sản xuất quyết định phân phối, lưu thông và tiêu dùng. Đồng thời, là khâu nối liền sản xuất với sản xuất, nối liền sản xuất với tiêu dùng, công tác phân phối, lưu thông có tác động mạnh mẽ, nhanh nhậy đến sản xuất và đời sống.
Sản xuất quyết định lưu thông, phân phối và tiêu dùng cả về quy mô và phương thức. Chỉ có thể lưu thông, phân phối và tiêu dùng trong phạm vi sản xuất cho phép, và ứng với mỗi phương thức và trình độ phát triển sản xuất phải có phương thức phân phối, lưu thông phù hợp. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng phải nắm vững cái gốc là sản xuất, chỉ có làm chủ sản xuất, đẩy mạnh sản xuất phát triển, mới có cơ sở để làm chủ phân phối, lưu thông.
Tài chính, tiền tệ, thương nghiệp, giá cả, tiền lương là những phạm trù hoạt động theo những quy luật chung của phân phối, lưu thông xã hội chủ nghĩa, mỗi phạm trù lại có quy luật riêng của nó, mà chúng ta phải phát hiện và vận dụng tốt. Song ngay trong chặng đường đầu tiên này, các quy luật về phân phối, lưu thông phải phục tùng quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội và quy luật phát triển cân đối, có kế hoạch. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều thành phần, cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa còn phức tạp, thì lưu thông, phân phối còn chịu tác động của các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa nhỏ và của chủ nghĩa tư bản, và chúng ta phải luôn luôn sử dụng các công cụ phân phối để tiến hành cuộc đấu tranh, bảo đảm sự thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội. Phân phối diễn ra dưới cả hai hình thái hiện vật và giá trị. Trong chủ nghĩa xã hội, còn có sản xuất hàng hóa, cho nên, còn giá trị và quy luật giá trị, song quan hệ giữa giá trị và giá trị sử dụng đã thay đổi; giá trị sử dụng là mục đích, còn giá trị là thước đo tính toán, là phương tiện phân phối và đòn bẩy kích thích để thực hiện kế hoạch, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch kinh tế - xã hội của ta đặt lên hàng đầu giá trị sử dụng và các cân đối hiện vật, đồng thời cũng coi trọng giá trị và các cân đối về giá trị.
Phân phối phải thúc đẩy sản xuất phát triển, trên cơ sở đó, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý, bảo đảm các mối quan hệ cơ bản trong nền kinh tế, nhất là giữa thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đó chính là chức năng cơ bản của tài chính.Từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội, yêu cầu tạo ra nguồn vốn ban đầu là một vấn đề chiến lược đang đặt ra hết sức gay gắt. Nguồn vốn đó là ở chỗ nắm vững và khai thác tốt các khả năng dồi dào về lao động, đất đai và tài nguyên của đất nước, những cơ sở vật chất - kỹ thuật sẵn có và mọi ngành, nghề. Đồng thời với đẩy mạnh sản xuất, việc phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu là con đường chủ yếu để thực hiện tích lũy xã hội chủ nghĩa. Nguồn vốn tài chính được hình thành ngay trong quá trình sản xuất vật chất diễn ra tại các đơn vị cơ sở. Muốn có nguồn vốn ngày càng tăng, phải chăm lo cho các đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, chống khuynh hướng tạo vốn bằng cách đơn thuần chạy theo lợi nhuận, tùy tiện nâng giá để thu chênh lệch.
Sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm, tiết kiệm trong sản xuất cũng như trong tiêu dùng. Phải sắp xếp tiêu dùng trong giới hạn mà sản xuất cho phép, kiên quyết thay đổi những thói quen tiêu dùng không phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và truyền thống của dân tộc.
Trong chủ nghĩa tư bản, có tiền là mua được tất cả. Trong chủ nghĩa xã hội, đồng tiền không còn vị trí như vậy, cái quyết định là sử dụng lực lượng lao động xã hội trên cơ sở làm chủ tập thể của những người lao động. Nhưng đồng tiền vẫn là phương tiện tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, gắn lao động với đất đai để tạo ra nhiều sản phẩm; đồng tiền còn là công cụ phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân dưới hình thái giá trị, thống nhất với hình thái hiện vật. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải quản lý chặt chẽ lưu thông tiền tệ, ổn định và củng cố sức mua của đồng tiền, thu bớt tiền thừa trong lưu thông, nhất là những khối lượng tiền lớn trong tay bọn gian thương, đầu cơ, tích trữ, buôn lậu. Mặt khác, trên cơ sở làm chủ sản xuất, làm chủ thị trường, Nhà nước có thể chủ động phát hành theo kế hoạch để thúc đẩy sản xuất, phân phối lại các nguồn vốn có lợi cho các lực lượng xã hội chủ nghĩa, với điều kiện bảo đảm đồng tiền được sử dụng có hiệu quả. Ngân hàng phải điều hoà lưu thông tiền tệ, huy động vốn tiền nhàn rỗi vào kinh doanh, và bản thân ngân hàng phải là một tổ chức kinh doanh nhanh nhạy. Thông qua nghiệp vụ kinh doanh, ngân hàng thực hiện chức năng phục vụ và kiểm soát nền sản xuất cũng như quá trình phân phối trong xã hội.
Lưu thông vật tư, hàng hoá (thương nghiệp) là lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội hết sức quan trọng. Như Lênin từng nói "những người cộng sản phải học buôn bán" để biết buôn bán văn minh, theo kiểu xã hội chủ nghĩa. Kinh doanh thương nghiệp xã hội chủ nghĩa lấy phục vụ sản xuất và đời sống người lao động làm mục tiêu hàng đầu, chứ không phải kinh doanh đơn thuần về lời lãi. Có làm như vậy mới cải tạo được thương nghiệp tư nhân, làm chủ được thị trường xã hội và giải quyết thắng lợi vấn đề "ai thắng ai" trên mặt trận phân phối lưu thông.
Làm chủ thị trường là vấn đề gay gắt nhất hiện nay của Nhà nước ta. Thị trường xã hội chủ nghĩa là quan hệ trao đổi có tổ chức, có kế hoạch giữa công nghiệp và nông nghiệp trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, giữa hai giai cấp cùng làm chủ là công nhân và nông dân do Nhà nước quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các tổ chức cung ứng và thu mua của Nhà nước phải thông qua việc ký kết hợp đồng với người sản xuất ngay từ đầu vụ, tổ chức đưa vật tư và hàng tiêu dùng về phục vụ kịp thời yêu cầu của sản xuất và đời sống, để nắm được sản phẩm ngay từ nơi sản xuất, không phải chạy theo việc tranh mua, tranh bán trên thị trường. Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và hợp tác xã mua bán) phải mở rộng mạng lưới bán lẻ đến tận phường, xã, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân mà tổ chức tốt sự phân phối phục vụ đời sống của người lao động, tuyệt đối không được thông qua bọn buôn bán đầu cơ. Chỉ có như vậy, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa mới thực sự là hậu cần của sản xuất và nội trợ của toàn dân, thực hiện đúng mục đích cơ bản của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của đời sống vật chất và văn hoá của những người lao động và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, là nguyên tắc phân phối duy nhất đúng đắn trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Thị trường là nơi diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, diễn ra cuộc đấu tranh giữa ta và địch một cách gay gắt hằng ngày, hằng giờ. Không thể làm chủ sản xuất, phân phối, lưu thông, không thể ổn định đồng tiền, giá cả và đời sống của người lao động, nếu không làm chủ thị trường, nếu để thị trường tự do hoạt động lấn chiếm thị trường xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chủ trương còn để năm thành phần kinh tế trong chặng đường đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ở miền Nam là nhằm khai thác mọi tiềm năng sản xuất, tạo thêm của cải cho xã hội. Nhưng không phải trong sản xuất có bao nhiêu thành phần thì trong thương nghiệp cũng có bấy nhiêu thành phần. Ngày từ bây giờ, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải nhanh chóng quản lý thống nhất và giao cho thương nghiệp xã hội chủ nghĩa độc quyền kinh doanh những mặt hàng có ý nghĩa lớn đối với quốc kế, dân sinh, trước hết là lương thực và những vật tư chủ yếu, những hàng tiêu dùng thiết yếu. Bằng các loại biện pháp kinh tế, hành chính, giáo dục kết hợp, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải vươn lên nắm đại bộ phận bán buôn, chi phối phần lớn bán lẻ để thay thế càng nhanh càng tốt thị trường tự do. Cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ thị trường tự do về những mặt hàng chủ yếu, thủ tiêu chợ đen, loại trừ bọn đầu cơ, buôn lậu, chống sự phá hoại của kẻ thù, xoá bỏ mọi hình thức thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, cắt đứt sự liên kết giữa tư sản thành thị với phú nông, phú thương và nông dân cá thể, đó là một tiền đề có tính quyết định, để làm chủ thị trường và giá cả. Xác định đúng chính sách giá, vận dụng chính sách hai giá và giá linh hoạt cũng là để đấu tranh đẩy lùi thị trường tự do, tiến tới làm chủ thị trường ngày càng rộng lớn và vững chắc hơn.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, chúng ta chủ trương còn để thị trường tự do tồn tại trong một phạm vi nhất định ở nông thôn và thành thị, làm nơi trao đổi, mua bán trực tiếp những sản phẩm thứ yếu giữa người sản xuất và người tiêu dùng, không có trung gian đầu cơ mua đi, bán lại. Các hoạt động của tiểu thương trong điều kiện còn có sản xuất tư nhân và cá thể, cần phải được tổ chức, kiểm soát chặt chẽ và phải được thay thế dần bằng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa (kể cả dịch vụ).
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, đồng thời phản ánh tổng hoà các mối quan hệ cơ bản về kinh tế - xã hội. Giá cả trước hết lấy giá trị làm cơ sở, thực chất của giá trị là lượng lao động xã hội cần thiết. Giá cả phải dựa trên cơ sở giá thành hợp lý, được quản lý và tính toán chặt chẽ và ngày càng đầy đủ. Giá cả phải bảo đảm cho người sản xuất có thu nhập và lợi nhuận thoả đáng, bảo đảm có tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng cho từng cơ sở, từng địa phương, từng ngành, và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Giá cả phải giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, bảo đảm cho công nghiệp và nông nghiệp đều phát triển trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Giá cả trong nước phải dựa trên cơ sở giá trị dân tộc và các mối quan hệ bên trong của nền kinh tế quốc dân là chủ yếu; đồng thời giá cả trong nước cũng phải có mối quan hệ với giá cả thế giới, nhằm góp phần mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu, thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Giá cả phải phù hợp với sức mua của đồng tiền. Trong điều kiện còn tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể, giá cả nhà nước phải có tác dụng đấu tranh thu hẹp thị trường tự do. Phải chống cả hai khuynh hướng không đúng: một là, chạy theo cơ chế thị trường, lấy giá thị trường tự do làm tiêu chuẩn để định giá nhà nước, muốn thả toàn bộ hệ thống giá nhà nước trôi nổi theo giá thị trường tự do đầy rẫy những yếu tố đầu cơ, phá hoại, và chứa đựng những quan hệ phân phối tự phát; hai là, bảo thủ trì trệ, không tính đến những biến đổi của tình hình kinh tế, tài chính, không đáp ứng những đòi hỏi khách quan của các quan hệ kinh tế - xã hội đã thay đổi. Đại bộ phận giá cả trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phải là giá có kế hoạch, hình thành từ trong sản xuất, chứ không phải hình thành do quan hệ cung - cầu trên thị trường. Đó là hệ thống giá của chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Nhà nước ta nắm trong tay những cơ sở kinh tế then chốt và đại bộ phận sản phẩm của nền kinh tế quốc dân, hoàn toàn có thể và cần phải làm chủ giá những mặt hàng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống. Mặt khác, trong một thời gian nhất định, để thích ứng với đồng tiền còn giảm giá và cung cầu còn mất cân đối, Nhà nước trước mắt và tạm thời cần thi hành chính sách hai giá. Bên cạnh bộ phận giá cơ bản ổn định đối với những sản phẩm chính của kinh tế quốc doanh, những hàng tiêu dùng thiết yếu cung ứng cho công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang, những vật tư và một số hàng tiêu dùng trong hợp đồng hai chiều giữa Nhà nước với nông dân và thợ thủ công, còn có một bộ phận giá được chỉ đạo linh hoạt để mở rộng kinh doanh thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và đấu tranh với thị trường tự do, góp phần hướng dẫn và quản lý thị trường. Đó là một bước chuẩn bị để tiến tới thực hiện chính sách một hệ thống giá thống nhất, dựa trên những căn cứ hợp lý và có cơ sở ổn định vững chắc.
Vấn đề tiền lương và thu nhập phải được đặt ra và giải quyết trên cơ sở bảo đảm cho mọi người lao động phát huy quyền làm chủ tập thể trong sản xuất và đời sống, ai cũng có việc làm và làm việc với năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, tạo ra cho xã hội nhiều giá trị sử dụng ngày càng tốt hơn, rẻ hơn. Tiền lương trong chủ nghĩa xã hội phải quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động là một yếu tố thúc đẩy sản xuất, khuyến khích người lao động đem hết sức mình sản xuất ra nhiều của cải chất lượng tốt, giá thành hạ. Tiền lương phải bảo đảm cho người lao động tái sản xuất sức lao động của mình, đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở và nuôi được con cái. Trong điều kiện hiện nay, việc giải quyết vấn đề tiền lương không phải chỉ đơn thuần là tăng lương danh nghĩa theo sự biến động của giá cả thị trường "tự do", mà trước hết và cơ bản nhất là phải bảo đảm phân phối cho người lao động một lượng hàng tiêu dùng cần thiết hợp lý. Do đó, phải áp dụng chế độ cung ứng theo giá ổn định những mặt hàng thiết yếu cho công nhân, viên chức, làm cho bộ phận cơ bản của tiền lương thực tế không bị phụ thuộc vào giá thị trường thường xuyên biến động. Đồng thời, có một phần tiền lương còn chịu ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả (giá của nhà nước cũng như giá thị trường "tự do"), cho nên phải định kỳ xem xét lại tiền lương và điều chỉnh phần lương biến động cho phù hợp với chỉ số giá cả và chỉ số sinh hoạt.
Làm chủ sản xuất, làm chủ thị trường nhất thiết đập tan sự phá hoại của địch, nhất thiết không để cho bọn đầu cơ, buôn lậu và thương lái gây rối trên thị trường, đó là điều kiện cần thiết để làm chủ giá cả và tiền lương, từng bước giải quyết cơ bản vấn đề giá - lương - tiền, điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư cho công bằng, hợp lý, thiết thực tăng mức sống của công nhân, cán bộ, viên chức và các lực lượng vũ trang, khiến cho người ăn lương yên tâm chăm lo công việc sản xuất, tăng năng suất lao động. Từ đó, chúng ta tạo ra những điều kiện cơ bản để ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực về kinh tế và xã hội, làm cho sản xuất phát triển, người lao động phấn khởi, đời sống lành mạnh, xây dựng nếp sống mới cho xã hội.

VI- MỞ RỘNG QUAN HỆ KINH TẾ VỚI NƯỚC NGOÀI,
ĐẨY MẠNH XUẤT NHẬP KHẨU
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh mới của thế giới. Những đặc điểm tình hình thế giới ngày nay là:
Một là, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống thế giới, thành một cộng đồng quốc tế có công nghiệp hiện đại và khoa học - kỹ thuật tiên tiến; trong hệ thống đó, sự phân công và hợp tác, sự liên kết xã hội chủ nghĩa được thực hiện với quy mô ngày càng lớn.
Hai là, cả thế giới đã hình thành một thị trường với hai hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa song song tồn tại, cùng với các thị trường khu vực khác. Trong phạm vi từng loại thị trường và giữa các thị trường ấy với nhau, không chỉ có sự trao đổi buôn bán mà còn có những sự tác động kinh tế và ảnh hưởng qua lại ngày càng trực tiếp hơn.
Ba là, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh, mở ra những khả năng mới của con người và tạo ra những lực lượng sản xuất mới đồ sộ chưa từng thấy. Mỗi bước đều có khả năng nắm lấy những thành tựu của cuộc cách mạng ấy, bằng những con đường tương đối ngắn, đưa nền kinh tế của mình tiến lên trình độ hiện đại.
Sự vận động đồng thời của ba nhân tố ấy tạo nên một cách khách quan mối liên hệ tất yếu về kinh tế giữa nước này với nước khác, giữa nhóm nước này với nhóm nước khác. Gắn liền việc xây dựng kinh tế trong nước với việc thiết lập và ngày càng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài là một hiện tượng có tính tất yếu khách quan. Mỗi dân tộc phải tự mình lớn lên, phải xây dựng lấy nền kinh tế độc lập, tự chủ, nhưng điều đó phải được hiểu là phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, tận lực khai thác các khả năng bên trong và xác lập đúng đắn mối quan hệ dân tộc về kinh tế, chứ không phải là tự cô lập, khép kín. Mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài là hình thức tích cực tham gia sự phân công lao động quốc tế, là phương tiện để thực hiện sự trao đổi giá trị lao động, khai thác có hiệu quả cái mạnh của nước ngoài phục vụ việc xây dựng và phát triển kinh tế trong nước. Đối với nước ta, chính sách mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà, chúng ta phải tăng cường quan hệ kinh tế với nước ngoài để sử dụng một cách có lợi nhất những thành tựu của khoa học - kỹ thuật tiên tiến và thế mạnh của nền công nghiệp hiện đại thế giới.
Là một nước xã hội chủ nghĩa, thành viên của cộng đồng xã hội chủ nghĩa thế giới, gắn bó với các nước anh em vì cùng chung một lý tưởng, một hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta đặt lên hàng đầu mối quan hệ hợp tác với các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế, trước hết là với Liên Xô. Đây là sự hợp tác của những người anh em, hợp tác bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau, cùng có lợi, sự hợp tác này là sự liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa, mà mục đích là thúc đẩy quá trình xích lại gần nhau về trình độ phát triển kinh tế của các nước trong cộng đồng. Nói mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà trước hết là nói đến mối quan hệ phân công lao động về hợp tác với các nước anh em. Không có sự phân công và hợp tác đó, sẽ không sử dụng được sức mạnh tổng hợp của kinh tế xã hội chủ nghĩa thế giới. Hội nghị cấp cao mới đây của các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế đã đề ra những phương hướng cơ bản và những hình thức phong phú về hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ thuật, đưa sự hợp tác giữa các nước thành viên phát triển lên một trình độ mới. Hội nghị quyết định tăng cường sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu đối với nước ta và Cuba, Mông Cổ, đó là điều kiện thuận lợi mới cho việc mở rộng quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước anh em.
Lào và Campuchia là hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng có mối quan hệ đặc biệt, có sự gắn bó lâu dài trong lịch sử với nước ta, cùng nước ta hợp thành một khu vực kinh tế đặc biệt trên bán đảo Đông Dương. Lợi ích sự phát triển của mỗi nước và của toàn khu vực đòi hỏi phải thực hiện một sự liên kết đặc biệt.  Nước ta mở rộng sự nghiệp hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt với Lào và Campuchia để khai thác tốt nhất tiềm năng của từng nước, vươn lên thể hiện tốt vai trò động lực trong sự liên kết này.
Chúng ta cũng sử dụng đúng mức quan hệ kinh tế với các nước khác, coi trọng việc mở rộng giao lưu với các nước độc lập dân tộc, các nước không liên kết, đồng thời khai thông con đường làm ăn với các nước tư bản chủ nghĩa, phá bỏ sự bao vây của bọn đế quốc... Cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới không thể không bao gồm cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế. Song dù muốn hay không, sự tồn tại của thị trường thế giới như là một tổng thể thống nhất cũng tất yếu dẫn đến sự thiết lập mối quan hệ kinh tế giữa nước này với nước khác.
Chiến lược kinh tế đối ngoại của nước ta phải là một chiến lược chủ động, tích cực. Phải nắm vững nhu cầu của thị trường thế giới, đề ra những chủ trương thích hợp đối với từng khu vực và từng nước, những chính sách và tổ chức đúng đắn, mạnh dạn, nhiều hình thức linh hoạt về buôn bán và hợp tác quốc tế. Xuất - nhập khẩu, hợp tác kinh tế, hợp tác khoa học - kỹ thuật, kinh doanh dịch vụ, vay tín dụng quốc tế... là những hình thức phổ biến để mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, trong đó, xuất khẩu (bao gồm cả các hình thức hợp tác để tạo nguồn hàng xuất khẩu) là một khâu rất quan trọng.
Xuất - nhập khẩu phải được coi là một bộ phận trọng yếu trong cơ cấu kinh tế. Để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, chúng ta phải mạnh dạn nhập những gì ta cần, trước hết là những kỹ thuật, thiết bị, máy móc, phụ tùng, vật tư; cũng phải nhập cả một bộ phận hàng tiêu dùng cần thiết cho đời sống nhân dân. Muốn nhập khẩu phải có xuất khẩu, xuất nhiều là để nhập nhiều. Vay mượn là cần thiết, nhất là trong thời kỳ đầu, nhưng có vay phải có trả. Vì vậy, phải bằng mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược.
Kim ngạch xuất khẩu của ta những năm gần đây có tăng lên chút ít nhưng chưa đáng kể, chỉ mới bằng 30% kim ngạch nhập khẩu. Cơ cấu xuất khẩu trong một thời gian dài không được cải thiện, chủ yếu vẫn trông vào hàng nông sản, gia công hàng công nghiệp nhẹ, hàng tiểu, thủ công nghiệp. Mặt hàng xuất khẩu nói chung còn manh mún, giá trị chưa cao. Chúng ta hiểu biết còn quá ít về thị trường thế giới, thiếu những thông tin kịp thời và đáng tin cậy, thiếu sự nghiên cứu nghiêm túc. Cần phải cố gắng đến mức cao nhất để thay đổi tình hình này.
Cơ cấu kinh tế trong nước phải bảo đảm tạo ra những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chất lượng tốt, giá trị cao, khối lượng lớn và ổn định, có thị trường vững chắc. Chúng ta có thể mở rộng sản xuất hàng xuất khẩu bằng cách khai thác tốt những khả năng trong nước, đồng thời sử dụng các hình thức hợp tác kinh tế với nước ngoài, trước hết là với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, từ làm gia công, vay vốn đầu tư, trả bằng sản phẩm, cho đến liên kết, liên doanh.
Xuất khẩu phải thật sự trở thành nghĩa vụ của toàn dân, của mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi cơ sở sản xuất và cả mỗi người lao động. Cơ chế kinh tế của chúng ta phải bảo đảm mỗi người lao động một năm có thể dành khoảng một trăm ngày công cho xuất khẩu, từ thế mạnh của lao động, đất đai, ngành nghề tạo ra những nguồn xuất khẩu lớn về nông sản, thực phẩm, hàng công nghiệp. Rất có thể dành một phần ba lực lượng lao động cho sản xuất hàng xuất khẩu và tạo ra được những giá trị lớn. Có thể sử dụng hàng triệu người vào việc trồng và khai thác hàng triệu hécta caosu, chè, càphê và các cây trồng ngắn ngày và dài ngày khác. Nếu mỗi gia đình ở nông thôn đều nuôi hai con lợn, và trong tổng số lợn nuôi được, bớt ăn, dành một phần tư cho xuất khẩu, thì mỗi năm cũng được 5 - 6 triệu con lợn bán ra nước ngoài. Đương nhiên, lợn xuất khẩu phải được nuôi dưỡng đặc biệt, để đạt những tiêu chuẩn chất lượng cần thiết.
Nhà nước phải có chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, từ ưu tiên đầu tư, cung ứng lương thực, thực phẩm, các phương tiện sản xuất, cho đến ưu tiên về giá cả, định mức lợi nhuận, quyền sử dụng ngoại tệ, tiền lương và tiền thưởng.
Cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu phải linh hoạt, vừa bảo đảm nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương và ngoại hối, vừa cho phép các cơ sở lớn, các địa phương và các ngành được phép tiếp xúc với thị trường nước ngoài, khuyến khích đến mức cao nhất việc tăng hàng xuất khẩu. Kế hoạch hoá và quản lý chặt chẽ hoạt động xuất - nhập khẩu, thông qua xuất - nhập khẩu mà thúc đẩy toàn bộ sản xuất trong nước, đưa kỹ thuật hiện đại và phương pháp quản lý mới, đưa chất lượng và hiệu quả cao vào hoạt động kinh tế.
VII- XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ MỚI, CON NGƯỜI MỚI
Con người là vốn quý nhất của cách mạng. Hạnh phúc của con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Khẩu hiệu hành động của chúng ta là tất cả vì con người, tất cả do con người. Nói xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói quản lý kinh tế là phải nói đến con người, chủ thể và đối tượng của quản lý kinh tế.
Trước đây ý thức làm chủ đất nước, sức mạnh của mỗi con người Việt Nam yêu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nhân tố có ý nghĩa quyết định làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng và những cuộc kháng chiến chống xâm lược. Ngày nay, trong sự nghiệp đưa nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, xây dựng chủ nghĩa xã hội, ý thức tự giác và sức mạnh của con người làm chủ tập thể càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Từ những cơ sở kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề lại đang phải đương đầu với một kẻ thù mới thâm độc và xảo quyệt ở sát cạnh mình, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta càng đòi hỏi phải phát huy cao độ ý thức làm chủ, tinh thần sáng tạo của con người Việt Nam. Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới và con người mới. Con người là lực lượng sản xuất chủ yếu, tính năng động của con người có tác dụng to lớn trong sản xuất và quản lý kinh tế.
Chế độ mới, nền kinh tế mới quyết định sự hình thành nền văn hoá mới, đồng thời, nền văn hoá mới đang từng bước xây dựng cũng có tác động trực tiếp đến việc xây dựng nền kinh tế mới, hoàn thiện chế độ mới. Là sản phẩm của kinh tế, văn hoá cũng là động lực thúc đẩy kinh tế. Trong những điều kiện nhất định, văn hoá có thể đi trước để ảnh hưởng trở lại tiến trình kinh tế. Vì nói đến văn hoá, trước hết là nói đến con người. Con người vừa là sản phẩm của xã hội vừa là chủ thể xây dựng xã hội. Con người mới được hình thành và hoàn thiện, bằng kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng, cũng là tác giả của ba cuộc cách mạng ấy. Sức mạnh kinh tế không thể tách rời sức mạnh văn hoá, sức mạnh con người, và sức mạnh của văn hoá, của con người phải được hiện thực hoá trong sức mạnh kinh tế. Tách rời kinh tế với văn hoá và con người là không nắm vững quy luật phát triển kinh tế và xã hội.
Từ trong cội nguồn của nó, văn hoá là lao động. Hành vi văn hoá đầu tiên chính là lao động của con người tác động vào tự nhiên. Có lao động mới có con người, và có con người là có văn hoá. Văn hoá là biểu hiện sự gắn bó giữa người và người, làm cho con người hiểu kỹ con người, làm nảy nở những tình cảm tốt đẹp của con người trong lao động cải tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội. Nền văn hoá cao nhất là nền văn hoá đưa con người lên vị trí làm chủ nghĩa xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, thực hiện đạo lý "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Đó là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới. Nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc của nền văn hoá phải thể hiện phong phú, sinh động tư tưởng làm chủ tập thể. Nói cho cùng thì nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc chỉ là một. Bản lĩnh của dân tộc ta, một dân tộc có truyền thống văn hiến, phải được phát huy trong chủ nghĩa xã hội, làm đẹp thêm chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội nâng cao những tinh hoa của dân tộc để thật sự hài hoà với cuộc sống Việt Nam, với đại gia đình các dân tộc anh em đã từng kề vai sát cánh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nền văn hoá mới phải vun đắp tình yêu Tổ quốc kết hợp với tinh thần quốc tế vô sản, gắn liền vận mệnh của dân tộc mình với vận mệnh của các dân tộc trên thế giới trong sự nghiệp bảo vệ hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Nền văn hoá ấy là nền văn hoá làm chủ tập thể.
Nền văn hoá làm chủ tập thể phát huy lên một tầm cao mới tính cộng đồng trong truyền thống dân tộc, đồng thời tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển đầy đủ tài năng và trí tuệ của mình. Con người mới, con người lao động làm chủ tập thể, yêu lao động, giàu tình thương, trọng lẽ phải là mục tiêu của nền văn hoá mới.
Lao động là phẩm chất hàng đầu của con người làm chủ tập thể, đó là lao động tự giác, sáng tạo, có ý thức trách nhiệm ngày càng cao. Chủ nghĩa xã hội đem giá trị của con người trả lại cho con người, mà sự thể hiện tập trung nhất là vai trò làm chủ trong lao động sáng tạo xây dựng cuộc sống mới. Con người làm chủ tập thể được hưởng quyền làm chủ và biết làm chủ, trước hết thể hiện trong hoạt động hằng ngày của mình đem lại hiệu quả cho xã hội, cho tập thể và cho cả bản thân mình. Làm theo năng lực và được phân phối theo lao động, đó là chân lý đơn giản, nhưng là nguyên tắc đạo đức cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Chỉ bằng lao động và thông qua lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội, mới từng bước xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, làm nảy nở tình thương rộng lớn, một phẩm chất cao đẹp vốn có của con người Việt Nam. Thương nước - thương nhà, thương người - thương mình là tình cảm lớn làm nên vẻ đẹp của con người, lối sống và nền văn hoá Việt Nam. Tình thương lớn ấy cần phải được bồi dưỡng và nâng lên trong các mối quan hệ của chế độ làm chủ tập thể. Một mũi tiến công độc hại của các loại kẻ thù của chủ nghĩa xã hội là làm sa đoạ, tha hoá con người, kích động những tình cảm, lối sống ích kỷ ươn hèn, thấp kém. Vì vậy, mọi người chúng ta cần phải cảnh giác trước những âm mưu nham hiểm của kẻ thù, phải ngăn chặn những ảnh hưởng độc hại, đẩy lùi và tiến tới xoá bỏ những hiện tượng tiêu cực trong đạo đức và lối sống, nhất là tệ nạn chạy theo đồng tiền và những hủ tục, mê tín, dị đoan. Phải cải tạo hoàn cảnh để cải tạo con người, và xây dựng con người để cải tạo hoàn cảnh. Công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội phải nhằm mục đích cải tạo hoàn cảnh xã hội để cải tạo con người và lối sống. Đẩy mạnh sản xuất, làm chủ thị trường, cải thiện đời sống quần chúng là tạo ra hoàn cảnh thuận lợi xây dựng con người mới, nếp sống mới. Cơ chế quản lý kinh tế phải tạo ra động lực để thúc đẩy con người tích cực cải tạo hoàn cảnh. Như Mác đã phân tích: "lợi ích được hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức", do đó giải quyết thoả đáng mối quan hệ hài hoà giữa các lợi ích có tác dụng sâu xa đối với sự nghiệp xây dựng lối sống và con người xã hội chủ nghĩa. Các đơn vị kinh tế tiên tiến là những nơi biết phát huy động lực thúc đẩy sản xuất, động viên tinh thần thi đua của quần chúng, đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao, tạo ra được bầu không khí đoàn kết, phấn khởi. Chỉ trên cơ sở lao động tự giác và sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống, thì mới có được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người và có sinh hoạt văn hoá lành mạnh.
Con người mới yêu lao động, giàu tình thương là con người biết trọng lẽ phải, nhận thức được chân lý. Để làm chủ tiến trình xây dựng xã hội mới, người lao động không những phải thiết tha gắn bó với sự nghiệp đó, mà còn phải hiểu biết quy luật phát triển của nó. Chỉ bằng nhiệt tình, không thể đưa nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Quyền làm chủ chỉ có thể thực hiện được khi biết làm chủ và có năng lực làm chủ, nghĩa là phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, phát hiện quy luật và hành động đúng quy luật, có tri thức quản lý kinh tế và biết cách quản lý kinh tế. Sự buông lỏng quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong một số khâu quan trọng vừa qua, nguyên nhân chính cũng là do thiếu sự hiểu biết đầy đủ quy luật và sự tác động của các quy luật trong vận động kinh tế và xã hội.
Để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và xã hội, phải phát huy sức mạnh của tập thể và sức mạnh của mỗi người. Đó chính là từng bước thực hiện tư tưởng của Các Mác: "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện sự phát triển tự do của mọi người". Xác lập vị trí của mỗi người trong cơ chế làm chủ tập thể, phát huy được tài năng và phẩm chất của cá nhân để thực hiện tốt quyền làm chủ của từng người lao động về nghĩa vụ và lợi ích, đó là sự bảo đảm đúng đắn sức mạnh của chế độ làm chủ tập thể. Phải tạo ra một cơ chế thể hiện rõ cá nhân, gia đình và xã hội là một tồn tại khách quan. Con người lao động làm chủ tập thể phải là hiện thân của mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân, gia đình và xã hội. Yêu lao động, giàu tình thương, trọng lẽ phải, đó là những phẩm chất cơ bản cần được bồi dưỡng và hoàn thiện để cho con người có thể từng bước làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, tiếp cận và chiếm lĩnh được cái đúng, cái tốt và cái đẹp của cuộc sống.Làm chủ tập thể chính là cái đúngcái tốt và cái đẹp cao nhất mà con người đang vươn tới trong thời đại mới.

VIII- ĐÁP ỨNG NHỮNG NHU CẦU CỦA ĐỜI SỐNG
VÀ QUỐC PHÒNG, AN NINH
Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và nền sản xuất xã hội xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất tất yếu dẫn đến mục đích cơ bản và thường xuyên của sản xuất là đáp ứng ngày càng đầy đủ những nhu cầu vật chất và văn hoá của nhân dân. Để đạt được mục đích đó, sản xuất phải không ngừng phát triển trên cơ sở một nền kỹ thuật ngày càng cao, và do đó, tích luỹ để công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội cũng trở thành tất yếu. Mặt khác, phải thấy rõ rằng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh đất nước đã giành được độc lập, tự do nhưng kẻ thù bên ngoài vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược, vẫn tiếp tục phá hoại và đe doạ chiến tranh, cho nên những nhu cầu về quốc phòng và an ninh cũng đặt ra một cách thường xuyên và cấp bách. Hơn thế nữa, khi nào chủ nghĩa xã hội chưa giành được thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới, khi mà trên trái đất này vẫn còn tồn tại nhiều xã hội có chế độ chính trị khác nhau, còn có chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa bành trướng, còn có chiến tranh và các nguyên nhân gây ra chiến tranh, thì việc bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm những nhu cầu về quốc phòng vẫn còn được đặt ra đối với mỗi nước.
Nâng cao đời sống, tích luỹ để xây dựng, bảo đảm quốc phòng và an ninh, đó là ba loại nhu cầu có tính khách quan, tất yếu mà mọi kế hoạch kinh tế - xã hội đều phải tính đến. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, xuất phát từ tình hình cụ thể, có thể đặt thứ tự ưu tiên cho việc đáp ứng các nhu cầu đó một cách thoả đáng, song sẽ sai lầm nếu tuyệt đối hoá một nhu cầu, đi đến coi nhẹ hoặc bỏ qua các nhu cầu khác.
Trong chặng đường trước mắt của chủ nghĩa xã hội ở nước ta, do cơ sở vật chất - kỹ thuật còn non kém, trình độ phát triển sản xuất còn thấp, việc cùng một lúc đáp ứng cả ba nhu cầu nói trên là không dễ dàng. Mặt khác, phải thấy rõ tính chất bức thiết của cả ba loại nhu cầu đó, thấy rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa chúng với nhau để xác định phương hướng và biện pháp giải quyết.
Sự vững vàng của đất nước trước hết là ở chỗ nhân dân sống no đủ, sống lành mạnh, nhưng nếu làm được bao nhiêu ăn tiêu hết bấy nhiêu, không chắt chiu tích luỹ, không thực hiện công nghiệp hoá, thì cũng không thể có chủ nghĩa xã hội, và rốt cuộc, cũng không thể nâng cao đời sống. Và cũng sẽ không có chủ nghĩa xã hội nếu độc lập dân tộc không được giữ vững, nếu chỉ một chiều nhấn mạnh việc thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của nhân dân mà coi nhẹ, đi đến hạ thấp việc đáp ứng những nhu cầu về quốc phòng và an ninh.
Thực tiễn cho thấy chúng ta có thể và nhất định phải đồng thời giải quyết cả ba loại nhu cầu nói trên. Trước đây, nhân dân ta làm không đủ ăn, ngay cả quỹ tiêu dùng cũng phải dựa vào nước ngoài một phần. Với nhịp độ phát triển kinh tế như mấy năm gần đây, chúng ta đã dần dần làm đủ ăn và tiến tới có tích luỹ. Về quốc phòng, chúng ta đang cố gắng bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của đời sống bộ đội.
Thu nhập quốc dân sản xuất, tính theo đầu người, tuy còn thấp, nhưng nếu biết quản lý và phân phối tốt, sử dụng tiết kiệm và hợp lý, thì vẫn có thể bảo đảm được cho nhân dân và bộ đội những nhu cầu tối thiểu, tình hình đời sống không đến nỗi căng thẳng. Chỗ yếu của ta là chưa làm chủ được thị trường và phân phối.
Phải trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà giải quyết vấn đề đời sống. Làm chủ sản xuất phải đi liền với làm chủ phân phối. Cùng với sức mạnh của cả nước, phải phát huy sức mạnh của từng địa phương, từng cơ sở để giải quyết vấn đề đời sống. Nguyên tắc phân phối theo lao động, phải được tôn trọng và thực hiện đúng. Địa phương nào, đơn vị nào, người nào làm việc tốt hơn, có năng suất và hiệu quả cao hơn, thì địa phương đó, đơn vị đó, người đó phải có thu nhập cao hơn, được sống tốt hơn. Chủ nghĩa bình quân trong phân phối là một khuynh hướng sai lầm xa lạ với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng ta phải thừa nhận tính đa dạng của cuộc sống. Đồng thời cũng phải hết sức chú trọng việc không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội và phúc lợi tập thể là phần mà mọi người lao động và con cái họ đều được hưởng một cách bình đẳng. Việc giải quyết hợp lý các loại phúc lợi này đi liền với phân phối theo lao động sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ. Trong khi chăm lo chung đời sống của nhân dân cả nước, chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến đồng bào các dân tộc ít người, ra sức phát huy những truyền thống tốt đẹp và khả năng cách mạng xã hội chủ nghĩa của đồng bào các dân tộc, khai thác những thế mạnh to lớn của trung du và miền núi để mở mang đồng bộ kinh tế, văn hoá và xã hội, từ đó nhanh chóng nâng cao trình độ phát triển và cải thiện đời sống của đồng bào các dân tộc, tăng cường sự đóng góp của đồng bào các dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nâng cao đời sống của nhân dân là mục đích, là quy luật cơ bản của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm quốc phòng và an ninh của đất nước cũng là quy luật của đấu tranh cách mạng trong giai đoạn quá độ của thế giới. Hai loại quy luật đó chẳng những không đối lập với nhau mà, trong quá trình vận động, nếu được vận dụng đúng đắn, còn tác động thuận chiều với nhau, bổ sung cho nhau. Sức mạnh của quốc phòng, xét trên toàn cục, là sức mạnh tổng hợp của kinh tế, chính trị và quân sự. Và sức mạnh quân sự là sức mạnh của bộ đội sống tốt, được trang bị tốt, sức mạnh của một quân đội dựa chắc trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh, theo một đường lối chính trị và quân sự đúng đắn, sức mạnh của ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) bố trí thích hợp trên từng địa bàn, được huấn luyện và giáo dục tốt, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giỏi. Kết hợp kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế là xây dựng kinh tế và quốc phòng theo một cơ cấu hợp lý, làm cho kinh tế đủ mạnh để bảo đảm cho quốc phòng mạnh và quốc phòng mạnh để bảo vệ kinh tế, bảo đảm những điều kiện an ninh cho kinh tế phát triển. Mọi chương trình kinh tế - xã hội hằng năm và dài hạn đều phải quán triệt bốn mục tiêu do Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, quán triệt nhiệm vụ đấu tranh chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.
Chiến lược cơ bản để kết hợp đúng đắn kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế là thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân và xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Theo chiến lược đó, kinh tế quốc dân phải được đẩy mạnh để đáp ứng được các nhu cầu của quốc phòng và an ninh, xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, bảo đảm hậu cần, tạo ra hậu phương vững chắc cho chiến tranh nhân dân. Các lực lượng quốc phòng và an ninh thì ngược lại, không chỉ làm tròn nhiệm vụ bảo vệ đất nước, bảo vệ an ninh cho sự nghiệp xây dựng kinh tế, mà còn dùng một phần lực lượng lao động và cơ sở vật chất - kỹ thuật của mình trực tiếp tham gia xây dựng và phát triển kinh tế. Mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi đơn vị đều cần đánh giá cho đúng, thấy cho hết âm mưu và những hành động phá hoại của địch, nhất là trên mặt trận kinh tế; kiên quyết áp dụng những biện pháp có hiệu lực để ngăn ngừa và chống lại sự phá hoại đó; thực hiện một cách nhất quán kế hoạch bảo vệ sản xuất, bảo vệ xí nghiệp, công trường, bảo vệ máy móc, vật tư, nguyên liệu.
Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế phải thực hiện trong phạm vi cả nước cũng như trên địa bàn từng vùng lãnh thổ, từng địa phương tỉnh, huyện, xã, phường. Nó phải xuyên suốt từ việc bố trí cơ cấu kinh tế - quốc phòng, phân bố lực lượng sản xuất (bao gồm cả lực lượng chiến đấu) cho đến việc hoạch định những kế hoạch cụ thể về tổ chức địa bàn chiến đấu, tổ chức hậu cần tại chỗ, thi hành chính sách bộ đội làm kinh tế và các cơ sở kinh tế làm hàng quốc phòng, chính sách an ninh nhân dân, hậu phương quân đội, v.v..
Do vị trí và hoàn cảnh đặc biệt của nước ta, quân đội ta phải duy trì một số quân thường trực đủ mạnh để làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Sử dụng một phần thời gian và lực lượng bộ đội (lao động, máy móc, thiết bị) vào việc xây dựng kinh tế thì có thể tạo ra một năng lực sản xuất đáng kể. Thực tiễn chỉ rõ, các cơ sở công nghiệp quốc phòng có nhiều khả năng làm những mặt hàng kinh tế, có kỹ thuật cao, bao gồm cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trừ các đơn vị trực tiếp chiến đấu, bộ đội đóng ở đâu có thể tham gia các hoạt động sản xuất, từ trồng trọt, chăn nuôi để tự cải thiện đời sống cho đến những công trình theo kế hoạch nhà nước như trồng rừng, làm thuỷ lợi, giao thông, nhà ở. Các đơn vị bộ đội chuyên làm kinh tế có thể đảm nhiệm những công trình lớn hơn trong các ngành nông nghiệp và công nghiệp. Khi có giặc thì cầm súng đánh giặc, khi không có giặc thì huấn luyện và làm kinh tế, đó là một truyền thống dân tộc và một nét tiêu biểu trong sinh hoạt của bộ đội ta.
Làm được như vậy thì quân đông mà kinh tế vẫn mạnh, bộ đội nhiều mà vẫn ăn no, đánh thắng.

IX- XÂY DỰNG CƠ CHẾ ĐẢNG LÃNH ĐẠO,
NHÂN DÂN LÀM CHỦ, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ
Cơ chế của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý là ba khâu gắn bó chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ. Đó là sứ mệnh lịch sử của Đảng, đồng thời cũng là tất yếu khách quan của chế độ làm chủ tập thể. Không có sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân lao động không thực hiện được quyền làm chủ của mình. Nhân dân lao động làm chủ chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba khâu của cơ chế làm chủ tập thể nằm trong một tồn tại thống nhất. Nhưng mỗi khâu lại có vị trí và chức năng riêng biệt không thể lẫn lộn. Đảng là một bộ phận trong nhân dân nhưng là bộ phận tiên tiến nhất của xã hội. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng phải đề ra đường lối, chính sách đúng đắn, phản ánh quy luật khách quan của xã hội và lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, và thông qua công tác tổ chức, vận động quần chúng để lôi cuốn nhân dân đi vào hành động cách mạng. Nhân dân làm chủ có nghĩa là nhân dân tự mình xây dựng và quản lý cuộc sống về mọi mặt phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan để thoả mãn các nhu cầu vật chất và văn hoá của mình. Nhân dân làm chủ thể hiện trong các phong trào cách mạng của quần chúng trên mọi lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Nhà nước là người đại diện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Nhà nước quản lý có nghĩa là Nhà nước phải cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng thành chế độ, chính sách, quy tắc, pháp luật của Nhà nước để hướng dẫn, tổ chức hành động cách mạng của quần chúng. Nhân dân lao động còn làm chủ tập thể bằng các đoàn thể quần chúng - các đoàn thể quần chúng giữ vai trò trọng yếu trong việc giáo dục đường lối, chính sách và ý thức làm chủ cho quần chúng, trong việc hướng dẫn quần chúng tham gia quản lý và thực hiện quyền hạn, lợi ích, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Xây dựng được đúng đắn cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thì phát huy được sức mạnh tổng hợp của tất cả các khâu của hệ thống chuyên chính vô sản, làm dấy lên được những phong trào sôi nổi của quần chúng để thực hiện thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Nhân dân lao động làm chủ tập thể về mọi mặt trong cả nước. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý phải xuyên suốt mọi mặt, mọi ngành hoạt động của xã hội, mọi cấp quản lý, mọi địa bàn của đất nước để bảo đảm nội dung toàn diện của chế độ làm chủ tập thể.
Trong cơ chế ấy, Nhà nước giữ một vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng. Nhà nước gắn liền mật thiết với Đảng, do Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng nên, chịu sự lãnh đạo thường xuyên và chặt chẽ của Đảng. Đồng thời Nhà nước là bản thân nhân dân lao động tự tổ chức lại thành cơ cấu quyền lực để thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhà nước quản lý là thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, và quyền làm chủ của nhân dân. Bản chất đó phải thể hiện trong tất cả những cái gì thuộc về Nhà nước, trong chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, lề lối làm việc của Nhà nước, cũng như trong trách nhiệm và quyền hạn, tác phong công tác và công việc của cán bộ nhà nước.
Nhà nước ta có hai chức năng gắn bó chặt chẽ với nhau: chức năng bảo vệ và chức năng tổ chức, xây dựng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước thực hiện hai chức năng ấy đều để bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Đứng trước âm mưu ... tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt nhằm xâm phạm nền độc lập dân tộc và phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, Nhà nước ta phải không ngừng chăm lo công tác quốc phòng và an ninh, xây dựng vững mạnh các công cụ bảo vệ như quân đội, công an, toà án, v.v. để khi cần thiết thì sử dụng sức mạnh của nhân dân chống lại và đập tan mọi mưu toan phá hoại từ bên ngoài và mọi hành vi phản cách mạng của những phần tử thù địch trong nước. Làm như thế là để bảo vệ vững chắc chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Chức năng thường xuyên và chủ yếu của Nhà nước ta là tổ chức và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đúng chức năng này, Nhà nước tạo nên trên đất nước ta một chế độ làm chủ tập thể vững mạnh về mọi mặt, không một kẻ thù nào có thể phá hoại được.
Nhà nước ta được xây dựng qua mấy chục năm đấu tranh vì độc lập dân tộc là một nhà nước vững mạnh về chính trị, có nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh chính trị và quân sự. Nhưng đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà thực chất là xây dựng kinh tế thì Nhà nước ta còn có nhiều nhược điểm. Vì vậy, trong việc xây dựng cơ chế làm chủ tập thể phải đặc biệt quan tâm xây dựng Nhà nước vững mạnh để thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng. Nhà nước phải là công cụ sắc bén và đắc lực của chuyên chính vô sản để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, xây dựng thành công chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Đảng lãnh đạo đề ra đường lối. Người tổ chức thực hiện đường lối trong tất cả chiều rộng và chiều sâu của nó, để biến đường lối đó thành hiện thực trong cuộc sống là Nhà nước. Quản lý một nền kinh tế đang trong quá trình hình thành, Nhà nước phải cùng một lúc làm tốt cả hai việc: vừa tổ chức xây dựng ra đối tượng quản lý, vừa quản lý đối tượng đang được xây dựng từng bước ấy. Có làm tốt việc quản lý mới tổ chức xây dựng đúng, có tổ chức xây dựng đúng mới quản lý tốt.
Là người đại biểu quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, trong quản lý kinh tế, Nhà nước phải làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ đất, rừng, biển, làm chủ các cơ sở sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đang được xây dựng ngày càng nhiều, làm chủ lực lượng lao động trong cả nước, từng địa phương, từng cơ sở, làm chủ quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, phân bố và sử dụng hợp lý lao động, kết hợp lao động với tư liệu sản xuất, làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất, làm chủ toàn bộ sản phẩm do nền kinh tế quốc dân tạo ra để phân phối đúng chính sách, đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội cũng như mỗi thành viên.
Thay mặt nhân dân lao động làm chủ toàn bộ nền kinh tế, Nhà nước phải điều hành hoạt động kinh tế theo một kế hoạch và một nền pháp chế thống nhất. Muốn làm chủ nền kinh tế, Nhà nước phải thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp bảo đảm Nhà nước vừa là một bộ máy quản lý hành chính -kinh tế vừa là một bộ máy quản lý sản xuất, kinh doanh. Quản lý hành chính - kinh tế và quản lý sản xuất, kinh doanh là hai mặt của công tác quản lý kinh tế của Nhà nước gắn bó mật thiết với nhau nhưng không lẫn lộn. Muốn làm tốt công tác quản lý kinh tế, Nhà nước phải kết hợp được trong nó cả hai mặt ấy của quản lý. Bộ máy nhà nước và bộ máy kinh tế phải là một với hai loại cơ quan: cơ quan quản lý hành chính, kinh tế kể từ Hội đồng Bộ trưởng, các bộ đến các uỷ ban các cấp và cơ quan sản xuất, kinh doanh gồm các cơ sở kinh tế như xí nghiệp, liên hiệp xí nghiệp, công ty, v.v.. Cơ cấu tổ chức nhà nước phải gắn với cơ cấu tổ chức kinh tế. Bộ máy nhà nước phải được tổ chức phù hợp với yêu cầu của cơ cấu kinh tế và những quy luật do cơ cấu này quyết định. Quy luật tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải phản ánh quy luật tổ chức và hoạt động của cơ cấu kinh tế. Không thể tuỳ tiện đặt ra tổ chức này hoặc tổ chức khác mà không xuất phát từ yêu cầu của tổ chức và hoạt động kinh tế. Đồng thời cũng tránh khuynh hướng giản đơn, không muốn lập ra những tổ chức mới khi có nhu cầu.
Nhà nước từ trung ương đến cơ sở phải được xây dựng theo đúng Hiến pháp để thực sự là người đại diện quyền làm chủ của nhân dân, là một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bộ máy ấy phải nằm ngay trong nhân dân, trong toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân.
Để quản lý kinh tế đúng đắn, bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, đến các hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân tỉnh, thành, quận, huyện, xã, phường phải được tổ chức đúng đắn với những chức năng, quyền hạn rõ ràng, bảo đảm làm chủ về kinh tế ở ba cấp: trung ương, địa phương và cơ sở. Ở đây, phải có sự phân công nhiệm vụ, phân định quyền hạn, phân giao trách nhiệm, phân phối lợi ích rõ ràng, chính xác.
Cơ cấu kinh tế là một cơ thể sống có rất nhiều mối liên hệ ngang dọc phức tạp. Bộ máy nhà nước phải kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, quản lý tổng hợp với quản lý theo ngành kinh tế kỹ thuật. Các bộ tổng hợp và các bộ chuyên ngành, các bộ ở trung ương và các uỷ ban nhân dân ở địa phương, trong khi thực hiện chức năng của mình, phải phối hợp chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau như những bộ phận của một cơ thể thống nhất dưới sự chỉ đạo tập trung của Hội đồng Bộ trưởng. Việc quản lý hành chính - kinh tế của Hội đồng Bộ trưởng và của các bộ, cũng như của ủy ban các cấp phải tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh phát huy được đầy đủ năng lực của mình. Nhằm mục đích ấy, phải đưa ra được những chính sách, chế độ, quy định chính xác khơi dậy được tính sáng tạo của cơ sở. Mặt khác, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, trong thực tiễn hoạt động của mình, phải tích cực tham gia quản lý hành chính - kinh tế bằng cách đề xuất với Nhà nước những vấn đề thuộc về chế độ, chính sách.
Quản lý nhà nước là quản lý theo pháp luật. Một mặt phải chống lối tập trung quan liêu, mặt khác, phải giữ nghiêm pháp chế, kỷ luật, kiên quyết chống những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật, vi phạm pháp luật nhà nước. Các cơ quan và cán bộ nhà nước là người chấp hành pháp luật càng phải nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật.
Bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở, từ các cấp chính quyền đến các cơ quan trực tiếp quản lý sản xuất, kinh doanh phải sát thực tế và cuộc sống, nhạy cảm với cái mới, nhanh chóng phát hiện và ủng hộ sáng kiến của quần chúng, kịp thời uốn nắn những hiện tượng sai lầm, lệch lạc. Việc quản lý của Nhà nước phải sát đến từng cơ sở kinh tế, từng điểm dân cư, từng gia đình, từng người lao động, từng người dân. Nhà nước phải bảo đảm mỗi người lao động đều có việc làm và làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả để mỗi người có mức sống ổn định, từng bước được cải thiện và góp phần tích lũy cho sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà. Nhà nước phải có trách nhiệm chăm lo cho người già và trẻ em.
Có cơ chế làm chủ tập thể đúng vẫn chưa đủ. Còn phải có một đội ngũ cán bộ tốt, để thực hiện đúng đắn cơ chế ấy. Cán bộ quyết định tất cả là điều đã được thực tiễn của các đơn vị điển hình tiên tiến chứng minh.
Đảng ta có một đội ngũ cán bộ được rèn luyện, thử thách qua giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và hai cuộc kháng chiến lâu dài và bước đầu có kinh nghiệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng nhìn chung, cán bộ ta còn thiếu kiến thức và năng lực quản lý kinh tế - xã hội. Quản lý vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật mà chúng ta phải học tập không chỉ trong sách vở mà chủ yếu thông qua kinh nghiệm thực tiễn, nghĩa là phải có thời gian mới học tập được. Vì vậy, một nhiệm vụ cấp bách, rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định của công tác cán bộ là phải ra sức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế - xã hội từ trung ương đến cơ sở, thông qua thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, học tập các điển hình tiên tiến.
Phẩm chất của cán bộ cũng thường xuyên là một vấn đề lớn. Cần khẳng định rằng đại đa số cán bộ ta có phẩm chất cách mạng tốt đẹp. Trong sự nghiệp xây dựng kinh tế, nhiều cán bộ đã trưởng thành và tích lũy được kinh nghiệm. Nhưng trong giai đoạn cách mạng mới, trước những thử thách mới của sự nghiệp xây dựng kinh tế trong hòa bình, một số không ít cán bộ do thiếu rèn luyện đã giảm sút ý chí chiến đấu và nhiệt tình cách mạng, phạm phải những sai lầm thuộc về đạo đức, phẩm chất như tham ô, tư lợi, vun vén cho cá nhân. Thậm chí nhiều người bị lợi ích vật chất cám dỗ đã trở nên thoái hóa, biến chất và phạm tội bóc lột, ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng. Những sai lầm này, nhất là trong hàng ngũ những cán bộ có trách nhiệm ở các cấp, xâm phạm nghiêm trọng quyền làm chủ tập thể của quần chúng, làm thiệt hại lợi ích kinh tế, chính trị của quần chúng. Những sai lầm này đang là những trở ngại to lớn ngăn cản việc thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cơ chế làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Vì vậy, đi đôi với việc mạnh dạn đề bạt những cán bộ có năng lực và phẩm chất đã được thử thách, phải loại trừ những cán bộ đã thoái hóa, biến chất, mất hết tín nhiệm với quần chúng, đưa ra khỏi Đảng những phần tử không còn đủ tư cách đảng viên, truy tố trước pháp luật những kẻ phạm tội nghiêm trọng. Cần tổ chức cho quần chúng định kỳ tham gia ý kiến với Đảng về công tác cán bộ, phê bình, nhận xét cán bộ, nêu kiến nghị về sắp xếp và đề bạt cán bộ.
Công tác cán bộ của Đảng phải được tiến hành một cách có kế hoạch nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ thật sự đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, của sự nghiệp xây dựng kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa. Phải đánh giá lại toàn diện đội ngũ cán bộ hiện có và có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ấy, đào tạo đội ngũ dự bị. Phải bố trí và sử dụng cán bộ đúng với tài năng và sở trường của từng người. Phải có chính sách đãi ngộ đúng đắn để khuyến khích phát huy năng lực của từng người. Phát hiện những người có năng lực quản lý để đưa vào cương vị phụ trách các ngành, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, và đào tạo những chuyên gia giỏi cho từng lĩnh vực công tác.
Xây dựng đúng đắn cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý là khâu then chốt của toàn bộ công tác quản lý của chúng ta. Nắm vững khâu then chốt này, chúng ta sẽ hoàn thiện được sự lãnh đạo của Đảng, cải tiến được công tác quản lý của Nhà nước và nhất định sẽ tạo nên được những phong trào quần chúng mạnh mẽ để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
X- SỬ DỤNG LỰC LƯỢNG TỔNG HỢP CỦA CÁCH MẠNG
Hội nghị lần thứ năm của Trung ương đã khẳng định rằng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và sử dụng lực lượng tổng hợp của cách mạng là sức mạnh to lớn của chúng ta.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân và toàn diện, nhân dân ta có sức mạnh to lớn để chiến thắng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, sử dụng lực lượng tổng hợp với trình độ cao hơn, nhân dân ta đã đánh thắng tên đế quốc xâm lược lớn nhất của thời đại. Sử dụng sức mạnh tổng hợp là một khoa học, một nghệ thuật cách mạng kết hợp sức mạnh của nước ta với sức mạnh của thời đại, sức mạnh quân sự với sức mạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, sức mạnh của đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, sức mạnh của từng người với sức mạnh của từng thôn xóm, từng huyện, từng tỉnh và của cả nước, sức mạnh của ba thứ quân, của ba vùng chiến lược và của ba mũi giáp công. Và biết sử dụng tổng hợp mọi lực lượng và mọi hình thức chiến đấu, chúng ta luôn luôn ở thế chủ động linh hoạt, giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và cuối cùng giành được thắng lợi hoàn toàn.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, Đảng ta phải sử dụng lực lượng tổng hợp của đất nước và của nền kinh tế để tạo ra sức mạnh to lớn ngay từ đầu.
Cơ sở của sức mạnh tổng hợp tồn tại khách quan trong bản thân sự vật. Mối liên hệ phổ biến đòi hỏi xem xét mỗi sự vật một cách toàn diện và xử lý nó trong mối quan hệ với sự vật khác. Đó là một nguyên lý mà phép biện chứng duy vật đã khẳng định. Chính là phù hợp với nguyên lý đó mà các khoa học trong thời đại ngày nay, trên cơ sở những tiến bộ đã đạt được trong giai đoạn phân tích trước đây, đang tiến tới giai đoạn tổng hợp. Xét về mặt lịch sử xã hội cũng vậy, loài người đang tiến tới thời đại làm chủ tập thể của nhân dân lao động, trong đó lịch sử diễn ra không phải tự phát mà là tự giác, đòi hỏi giải quyết mọi vấn đề phù hợp với sự vận động tổng hợp của các loại quy luật. Cũng như xây dựng chế độ làm chủ tập thể, vận dụng sức mạnh tổng hợp là một quy luật của thời đại.
Đường lối cách mạng của Đảng ta phản ánh quy luật vận động tổng hợp của các loại quy luật kinh tế, xã hội và các quy luật khoa học đang chi phối quá trình cách mạng ở nước ta. Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng tổng hợp các quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý ngay trong chặng đường đầu tiên của chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quan hệ tác động qua lại và kết hợp với nhau thành sức mạnh to lớn giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, giữa kinh tế trung ương, kinh tế địa phương và cơ sở, giữa kinh tế trong nước và nước ngoài, giữa kinh tế và quốc phòng. Xây dựng chế độ làm chủ tập thể là xây dựng một chế độ xã hội kết hợp hài hòa các mối quan hệ giữa làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, giữa làm chủ về chính trị với làm chủ về kinh tế, văn hóa, xã hội, giữa làm chủ cả nước với làm chủ trong từng địa phương và cơ sở, giữa cộng đồng và cá nhân.
Đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế của ta phản ánh các mối quan hệ tổng hợp khách quan cho phép chúng ta tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tổ chức thực hiện đường lối, biến đường lối đúng đắn thành hiện thực sinh động trên đất nước ta cũng phải là sự cố gắng tổng hợp của toàn Đảng và toàn dân.
Kinh tế, nhất là nền kinh tế trong quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, vận động theo quy luật tổng hợp. Không nắm vững và vận dụng quy luật vận động này trong khi điều hành toàn bộ nền kinh tế, cũng như trong khi giải quyết từng vấn đề cụ thể, nhất định chúng ta sẽ vấp phải những mâu thuẫn, những sự mất cân đối, thậm chí những sự rối ren, ngăn cản sự phát triển của kinh tế và cả các lĩnh vực hoạt động xã hội khác. Vì vậy, từng ngành, từng cấp, từng địa phương, từng cơ sở đều phải xuất phát từ thực tế của ngành, địa phương, và cơ sở của mình mà vận dụng tổng hợp đường lối chung và đường lối kinh tế để giải quyết các vấn đề kinh tế và các vấn đề khác một cách đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa sự nghiệp cách mạng của chúng ta tiến lên một cách năng động, linh hoạt.
Hội nghị Trung ương lần này tập trung thảo luận và quyết định một số vấn đề quan trọng về cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, giải quyết những vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách nhằm thực hiện cho được những mục tiêu và nhiệm vụ do Đại hội lần thứ V đề ra. Muốn giải quyết đúng những vấn đề nói trên, chúng ta cần phải nắm vững và quán triệt các quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là công cuộc rất mới mẻ, chúng ta phải cùng nhau thảo luận, tìm tòi, phát hiện và vận dụng các quy luật ngày càng thuần thục và có hiệu quả.
Điều quan trọng nhất là qua Hội nghị Trung ương lần này, chúng ta đạt đến sự nhất trí thật sự và nhất trí cao về nhận thức quy luật, về thấu suốt đường lối, về quan điểm và phương hướng đổi mới quản lý kinh tế, về các biện pháp quan trọng và cấp bách. Từ sự nhất trí của Trung ương, chúng ta thực hiện sự nhất trí của toàn Đảng, toàn dân. Tất cả cán bộ, đảng viên và mọi người lao động thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, cùng nhau hăng hái phấn đấu theo phương hướng thống nhất, trên quan điểm thống nhất, như vậy, nhất định chúng ta sẽ chuyển biến được tình hình kinh tế - xã hội, đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên.

Đảng Cộng sản Việt Nam:  Văn
kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.44,  tr.409-438.
___________
1. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V): Họp ngày 3-7-1984. Hội nghị bàn và ra nghị quyết Về những nhiệm vụ cấp bách trong công tác cải tiến quản lý kinh tế.
Hội nghị đã phân tích tình hình quản lý kinh tế hiện nay và phương hướng cải tiến quản lý kinh tế những năm trước mắt, đó là: "trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay nếu thấu suốt và cụ thể hoá đường lối đúng đắn của Đảng bằng một cơ cấu kinh tế hợp lý và một cơ chế quản lý thích hợp, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở từng cơ sở, từng địa phương, từng ngành, động viên được sức mạnh tổng hợp của cả nước thì chúng ta có khả năng tạo ra một chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội”.
Hội nghị còn ra Nghị quyết Một số vấn đề cập bách về phân phối, lưu thông.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hội nghị đã tìm ra các giải pháp thúc đẩy nền kinh tế phát triển, khắc phục những khuyết điểm trong công tác quản lý kinh tế, thi đua đẩy mạnh sản xuất và cải tiến công tác phân phối, lưu thông, thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1984.

http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?topic=168&subtopic=463&leader_topic=981&id=BT1391356265


---
Những entry liên quan đã đi trên blog này:

Nhìn lại đêm trước Đổi Mới và Đổi Mới - 7 (một cuốn sách xuất bản năm 1984 mang tên Lê Duẩn)
Nhìn lại đêm trước Đổi Mới và Đổi Mới - 6 (nhớ lại của Trần Độ nguyên Trưởng Ban VHVN)
Nhìn lại đêm trước Đổi Mới và Đổi Mới - 5  (hình ảnh Nguyễn Hữu Đang ở Nghĩa Đô năm 2004) 
- Nhìn lại đêm trước Đổi Mới và Đổi Mới - 4 (về đại phát kiến của Việt Nam "làm chủ tập thể", Nguyễn Ngọc Lanh) 




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.