Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

28/10/2014

Câu chuyện thác Bản Giốc - 5 (bài nhóm Dương Danh Huy)

Tôi chưa hiểu rõ là nhóm tác giả này đưa bản đồ Mĩ ra, để làm gì ? Mà thật ra, nên gọi là bản đồ của Việt Nam Cộng hòa (vốn do quân đội Mĩ vẽ lại bản đồ của Pháp lúc rút chạy khỏi Việt Bắc, chú giải cả bằng tiếng Anh và tiếng Việt). 

Tất nhiên, trong nghiên cứu ở lĩnh vực khác, như dân tộc học hay văn hóa dân gian, thì những bản đồ ấy có ý nghĩa tham khảo nhất định. Tôi cũng đã sử dụng kết hợp với những loại bản đồ khác, vào việc phân tích tên gọi của các thung lũng trồng ngô ở vùng Cao Bằng trước năm 1945, để so sánh với bây giờ. Chú ý là chỉ sử dụng tên gọi của một số thung lũng ở trong nội địa, cách xa biên giới, đã thấy nhóm bản đồ này sai nhầm không ít. Nếu chỉ dựa vào bản đồ của Mĩ đó, thì tài sản của làng nọ được đánh sang một làng cách đó vài km, thung lũng nọ xọ sang thung lũng kia. May là có bản đồ của địa phương qua các thời kì để đối chứng.

Có khi chỉ vì vài mét ruộng (loại thung lũng kể ở trên), làng nọ và làng kia đã xảy ra tranh chấp. Chứ chưa nói gì đến việc giữa quốc gia với quốc gia.

Từ sau việc Dương Danh Huy sử dụng một cách bất minh tài liệu dịch của tôi trên blog này, tự nhiên, mất hứng đọc bài của anh và cả nhóm đó.


Từ đây trở xuống là chép nguyên xi từ nhà BVN.

---

08/10/2013



So sánh vị trí cột mốc biên giới Việt Nam - Trung Quốc với bản đồ của quân đội Mỹ


Dương Danh Huy[1], Phạm Quang Tuấn và Phan Văn Song[2]
Các tác giả cảm ơn Lê Minh Phiếu và Phạm Thanh Vân đã góp ý

Từ khi Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc được ký kết ngày 30/12/1999 (“Hiệp định 1999”), đã có nhiều ý kiến, phân tích và tranh cãi về Hiệp định này, cũng như về việc phân giới cắm mốc sau đó.
Để có thể phân tích những vấn đề biên giới một cách khách quan, chúng ta cần biết chính xác biên giới “mới” và biên giới “cũ” ở đâu.

Biên giới “mới”, theo Hiệp định Biên giới Việt Trung, đã được công bố trong Nghị định thư Phân Giới Cắm Mốc Biên giới trên Đất liền Việt Nam – Trung Quốc giữa Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2009) (“NĐT”).[3] NĐT có vị trí đầy đủ các mốc và cách thức nối những mốc đó (chẳng hạn, theo sông, theo đường phân thủy, theo hướng Bắc Nam, v.v.).
Vấn đề là định nghĩa biên giới “cũ” thế nào.
Một trong những định nghĩa có thể chấp nhận được là biên giới Việt Nam - Trung Quốc trước khi Việt Nam giành lại độc lập từ Pháp. Biên giới này dựa vào các Hiệp ước 1887 và 1895 giữa Pháp và Trung Hoa.
Vào đầu thập niên 1950, trước khi Pháp rút khỏi Việt Nam, Sở Địa Dư Đông Dương (Service Geographique de l’Indochine, SGI) vẽ biên giới này, theo cách hiểu của Pháp, trên bản đồ tỷ lệ 1:25 000 (“bản đồ SGI”). Những bản đồ này được Sở Bản đồ của Quân đội Mỹ (Army Map Services, AMS) hiệu đính, soạn lại, và xuất bản ở tỷ lệ 1:50 000 (“bản đồ AMS”) vào năm 1964.[4] Trong công trình này, chúng tôi đã thử vẽ bản đồ so sánh so sánh vị trí cột mốc mới với biên giới trên bản đồ AMS.
Những vấn đề khi so sánh biên giới theo NĐT và bản đồ AMS là:
1. Hệ trắc địa khác nhau: Bản đồ AMS vẽ theo hệ trắc địa Indian 1960, tức là tọa độ được tính từ một số mốc chuẩn ở Ấn Độ. Tọa độ của các mốc biên giới theo NĐT được xác định theo hệ WGS-84, hệ trắc địa này xử dụng những dữ kiện chính xác hơn về hình dạng trái đất. Hai hệ tọa độ này cũng định nghĩa kinh độ zero khác nhau..Giải quyết vấn đề này khá đơn giản vì có những phần mềm dùng những công thức chính xác cho việc chuyển tọa độ. Chúng tôi đã kiểm tra kết quả do phần mềm chúng tôi dùng với kết quả do Cục Tình báo Địa-không gian Quốc gia của Mỹ (National Geospatial Intelligence Agency) và sự khác biệt chỉ là vài mét.
2. Những sai số trong bản đồ của SGI và AMS. Vì
(a) Phương tiện kỹ thuật hạn chế: thời 1950 chưa có vệ tinh, GPS, v.v. nên các nhà trắc địa thời 1950 phải dùng những dụng cụ dựa vào tay và mắt, “thô sơ” so với thời nay. Điều này sẽ góp phần gây ra sai số ngẫu nhiên.
(b) Khi biên giới ở các vùng rừng núi (như hầu hết biên giới Việt Trung) thì sự đo lường rất khó khăn, và trọng lực từ núi đồi cũng gây nhiễu cho thiết bị trắc địa. Điều này sẽ góp phần gây ra sai số ngẫu nhiên.
(c) Khi dùng những phương pháp trắc địa thời xưa, muốn đo tọa độ của một địa điểm thì phải dựa trên mạng tam giác trắc địa. Thực tế thì mỗi nước hay mỗi vùng có thể có một mạng tam giác trắc địa riêng, nhưng để lập hệ trắc địa Indian 1960 thì phải nối mạng trắc địa của Việt Nam vào với mạng của Ấn Độ. Việc nối mạng trắc địa từ Ấn Độ và Miến Điện, sang Thái Lan, sang Campuchia rồi tới Việt Nam phải đi qua nhiều điểm trắc địa, cho nên sai số tích tụ lại. Điều này sẽ góp phần gây ra sai số hệ thống (systematic error), tức là một sai số đồng đều ở mọi địa điểm.
Vấn đề 2 là vấn đề nan giải và theo nhận xét của chúng tôi (dựa theo những khác biệt giữa các mốc NĐT và sông, thác trên bản đồ AMS), có thể dẫn đến những sai số từ 0 tới khoảng 200 m. Chính những bản đồ của AMS cũng ghi ở nhiều chỗ là “Map sources irreconcilable” – bản đồ nguồn có mâu thuẫn không giải quyết được.
Một ví dụ cụ thể có thể thấy trong hình 1, lấy từ bản đồ binh_lieu-6452-2 của AMS, gần điểm 55 x 98 (107°29’, 21°39’30”). Thí dụ này cho thấy bản đồ AMS có những sự tự mâu thuẫn và có thể có sai số lên đến 200 m.
clip_image001
Hình 1. Xê xích đường biên giới do “sources irreconcilable” trên bản đồ binh_lieu-6452-2 của AMS.

Một thí dụ khác về sai số là trong khi đoạn sông Quy Sơn ở hạ nguồn thác Bản Giốc là biên giới, thì trên bản đồ của chúng tôi có một sự chênh lệch khoảng 100-150 m giữa các cột mốc mới với dòng sông biên giới trên bản đồ AMS. Điều đáng để ý ở đây là bản đồ Google Maps cũng thể hiện một sự chênh lệch khoảng 100-150 m giữa biên giới và dòng sông biên giới này, và sự chênh lệch đó củng cố quan điểm của chúng tôi rằng bản đồ AMS đã vẽ đoạn sông Quy Sơn này khoảng 100-150 m quá xa về phía tây nam.
Với những hạn chế do sai số, chúng tôi vẫn quyết định công bố các bản đồ so sánh cột mốc mới với biên giới trên bản đồ AMS, vì chúng tôi cho rằng chúng là một công cụ sơ khởi có thể có ích cho việc phát hiện và tìm hiểu về những trường hợp mà Hiệp định 199 và việc phân giới cắm mốc đã thay đổi biên giới.
Chúng tôi đã
● Dùng phần mềm để chuyển kinh độ và vĩ độ của cột mốc sang kinh độ và vĩ độ theo hệ trắc địa Indian 1960.
● Dùng phần mềm để chiếu các toạ độ này lên bản đồ với phép chiếu Universal Transverse Mercator (UTM) dùng múi 48 (tức là cùng phép chiếu với bản đồ AMS),[5] và dùng cùng tỷ lệ với bản đồ AMS.
● Chồng bản đồ các cột mốc lên bản đồ AMS bằng những phép chiếu tuyến tính.
Trong tương lai, có thể tìm cách giảm thiểu những sai số đã nói bằng cách dùng thông tin về địa hình (sông, đỉnh đồi, núi, đường xe, tàu, v.v.) để điều chỉnh lại địa đồ.
Kết quả
Kết quả của công trình này là 22 bản đồ có thể được tải về từ đây:
Các bản đồ có tên tập tin như sau.
clip_image003

Đoạn biên giớiTên tập tinĐường dẫn đến bản đồ Mỹ tương ứng
x0aKhông cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
x0bKhông cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
x0cKhông cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
1binh_lieu-6452-2-copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/binh_lieu-6452-2.pdf
2dinh_lap-6452-3 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/dinh_lap-6452-3.pdf
x2Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
3lang_son-6352-1 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/lang_son-6352-1.pdf
x3Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
4dong_dang-6352-4 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/dong_dang-6352-4.pdf
5na_cham-6353-3 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/na_cham-6353-3.pdf
x5Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
6phuc_hoa-6354-3 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/phuc_hoa-6354-3.pdf
x6Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
x6bKhông cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
7trung_khanh_phu-6354-4 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/trung_khanh_phu-6354-4.pdf
8tra_linh-6254-1 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/tra_linh-6254-1.pdf
9soc_giang-6254-4 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/soc_giang-6254-4.pdf
10nam_quet-6154-1 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/nam_quet-6154-1.pdf
x10Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
x10bKhông cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
11na_kung-6055-2 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/na_kung-6055-2.pdf
x11Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
x11bKhông cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
12na_lay-6055-3 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/na_lay-6055-3.pdf
x12Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
13ha_giang-5954-1 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/ha_giang-5954-1.pdf
x13Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
14pa_kha-5854-2 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/pa_kha-5854-2.pdf
x14Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
x14bKhông cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
15ngai_fong_tion-5854-3 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/ngai_fong_tion-5854-3.pdf
x15Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
16lao_kay-5753-1 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/lao_kay-5753-1.pdf
17muong_hum-5754-3 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/muong_hum-5754-3.pdf
x17Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
18phong_tho-5654-2 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/phong_tho-5654-2.pdf
x18Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
x18bKhông cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
19ta_phing-5653-4 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/ta_phing-5653-4.pdf
20muong_boum-5553-1 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/muong_boum-5553-1.pdf
x20Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
21ban_la_sin-5554-3 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/ban_la_sin-5554-3.pdf
x21Không cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
x21bKhông cóKhông có trong bản đồ 1:50 000
22ban_me_rang-5454-2 copy.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/ban_me_rang-5454-2.pdf



Lưu ý bản đồ AMS thiếu một số đoạn ngắn dọc biên giới, thí dụ như x1, x5, và công trình này không bao gồm những đoạn đó.
Chú giải về các bản đồ
Kinh độ, vĩ độ trên bản đồ dùng hệ trắc địa Indian 1960. Điều này có nghĩa tọa độ của mỗi cột mốc mới trên bản đồ sẽ hơi khác với tọa độ của nó trong Nghị định thư, vì Nghị định thư dùng hệ tọa độ WGS84. Tuy nhiên, cả hai tọa độ khác nhau này đều chỉ đến cùng một điểm trên mặt đất.
Bản đồ dùng phép chiếu Universal Transverse Mercator trên múi 48.
Các ô trên bản đồ là các ô tọa độ UTM tương ứng với 1 km x 1 km trên thực địa.
Nền của bản đồ là bản đồ 1:50 000 của quân đội Mỹ.
Bản đồ Mỹ có thể hiện các đặc trưng địa lý như núi đồi, sông suối, làng mạc, đường xá.
Bản đồ Mỹ có thể hiện các cột mốc Pháp-Thanh. Các cột mốc này được ghi chú dưới dạng “Boundary Marker (53)”.
Bản đồ Mỹ cũng có vẽ đường biên giới giữa các cột mốc. Biên giới này được vẽ bằng đường vạch đen.
Các điểm xanh hình vuông là cột mốc mới, theo toạ độ từ Nghị định thư sau khi đã được chuyển từ hệ trắc địa WGS84 sang Indian 1960. Độ chính xác của việc chuyển hệ là 1 giây, tương đương với 30 m trên mặt đất.
Bản đồ này cũng có thể hiện biên giới (đường đỏ) và các sông lớn (đường xanh) theo CIA World DataBank II. So sánh biên giới và các sông lớn theo CIA World DataBank II với bản đồ quân đội Mỹ xác nhận lại quan điểm của chúng tôi rằng bản đồ CIA World DataBank II đã bị đơn giản hóa và không còn chính xác.[6] Người xem có thể bỏ qua đường đỏ và đường xanh này.
D. D. H. – P. Q. T. – P. V. S.
Các tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
[1] Thành viên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông.
[2] Cộng tác viên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông.
[3] Xem Công báo từ số 634+635 tới số 640+641.
http://boxitvn.blogspot.jp/2013/10/so-sanh-vi-tri-cot-moc-bien-gioi-viet.html
---






Bổ sung 2

23/09/2013



Có thật vẽ vậy không được?

Phan Văn Song
Theo đường dẫn trong phần điểm tin của trang Basam.info ngày 19/9/2013 tôi đọc được bài ‘Vẽ vậy được hay sao?’ của tác giả Trương Nhân Tuấn đề cập tới bài ‘bản đồ mốc giới Việt Nam - Trung Quốc theo tọa độ từ nghị định thư phân giới cắm mốc’ của anh Dương Danh Huy và tôi là đồng tác giả. Sau đó ông còn viết thêm một bài gay gắt hơn: “Thư mở gởi các trang web Bô xít và Dân Luận”. Dù không phải là tác giả chính (tôi chỉ phụ trách phần xử lí dữ liệu), và dù hiểu biết còn hạn hẹp tôi buộc lòng phải viết đôi điều vạch ra một số chỗ chưa đúng trong lập luận của ông Tuấn nhằm giải toả những ngộ nhận có thể có ở bạn đọc có đọc hai bài viết này. Lưu ý rằng rằng đây chỉ làm quan điểm của riêng tôi và bạn đọc nào không cần tìm hiểu chi tiết có thể bỏ qua những phần chữ nhỏ bên dưới.

1. Nhận định chung nhất của ông Tuấn là “[c]ác bản đồ… đã được thực hiện không theo đúng bất kỳ một qui cách quốc tế “cartographie – vẽ bản đồ” nào. Cách vẽ của các tác giả là cách vẽ của con người thời cổ đại, lúc nhân loại chưa biết trái đất có hình cầu.” Để chứng minh cho nhận định này, tác giả đã lập luận như sau:
Thật vậy, các tác giả đã vẽ các bản đồ biên giới Việt-Trung theo tiêu chuẩn trái đất hình vuông. Điều này được kiểm chứng ở các đường thẳng đứng vẽ song song. Tức các ô ca-rô trên bản đồ đều là hình vuông và bằng nhau. Trong khi các bản đồ, từ thế kỷ thứ 19 trở lại đây, người ta đã biết tới yếu tố “hình cầu – géodésie” của trái đất. Từ hệ quả đó, ta thấy trên bất kỳ một tấm bản đồ nào, các đường kinh tuyến, tức các đường theo chiều bắc-nam, không phải là đường thẳng mà là đường cong, hội tụ lại với nhau ở hai điểm: cực bắc và cực nam (cực địa lý – khác với cực từ). Các đường ngang – tức vĩ tuyến – cũng là các đường cong, song song với nhau, chiều dài của các đường này không bằng nhau. Những «tứ giác” trên bản đồ không bằng nhau, nếu khác vĩ tuyến.”
Đúng như ông Tuấn nói, loài người đã biết trái đất có hình cầu từ lâu. Thật ra trái đất có dạng gần với hình ellipsoid hơn (tôi không muốn dùng từ hình ‘bầu dục’ hay hình ‘trái xoan’ ở đây vì đôi khi bị/được hiểu là hình phẳng) nhưng để đơn giản cứ tạm coi là trái đất có dạng hình cầu. Trong khi đó bản đồ là hình phẳng nên để vẽ được người ta phải dùng một phép chiếu nào đó để chuyển mặt cầu thành một [phần] mặt phẳng. Một trong các phép chiếu thông dụng làphép chiếu Mercator (do Gerardus Mercator đưa ra từ năm 1569) đến nay vẫn còn được nhiều công ti lớn trên toàn cầu sử dụng[1] và chúng tôi cũng sử dụng khi vẽ các bản đồ đang bàn. Phép chiếu này là một biến thái của phép chiếu ‘cầu lên trụ’. Để có thể xác định tính đúng đắn trong lập luận trên của ông Tuấn xin được phép mô tả sơ lược các phép chiếu này. Cách thực hiện thông thường dùng của phép chiếu ‘cầu lên trụ’ như sau (xem hình minh hoạ bên dưới):
clip_image002
Dựng một mặt trụ ngoại tiếp mặt cầu của trái đất theo đường xích đạo và chọn tâm O của trái đất làm tâm chiếu. Với một điểm bất kì P trên mặt trái đất, kéo dài tia OP về phía P sẽ gặp mặt trụ tại điểm P’ (P’ gọi là hình chiếu của P qua phép chiếu này). Làm tương tự như thế cho các điểm khác trên mặt cầu, ta chuyển được gần như toàn bộ mặt cầu lên mặt trụ (trừ hai điểm Bắc cực và Nam cực vì tại đó tia OP nằm trên trục của mặt trụ nên không gặp mặt trụ được). Sau đó khai triển mặt trụ theo một đường sinh (cắt mặt trụ theo một đường thằng song song với trục của nó rổi làm phẳng xuống) sẽ được bản đổ tỉ lệ 1:1 của trái đất. Nếu muốn có bản đồ kích thước thuận tiên chỉ thu nhỏ bản đồ này theo tỉ số thích hợp.
Với kiến thức toán học trung học phổ thông, có thể dễ dàng thấy rằng với phép chiếu này các kinh tuyến chuyển thành các đường thẳng đứng song song nhau và các vĩ tuyến thành các đường thẳng nằm ngang song song nhau. Tuy nhiên, lưu ý rằng nếu ta có các vĩ tuyến cách đều nhau trên trái đất thì các vĩ tuyến tương ứng trên bản đồ lại không cách đều nhau, càng ra xa xích đạo khoảng cách càng to. Gọi (Lon, Lat) là tọa độ điểm P và (x, y) là toạ độ điểm P’ (khi chọn hình chiếu của kinh tuyến gốc làm trục y’y và hình chiếu của xích đạo làm trục x’x), ta có các công thức chuyển toạ độ sau:
x = Lon (1), y = tg(Lat) (2) (lấy bán kính R của trái đất làm đơn vị)
Phép chiếu này có điểm nhược là khoảng cách của các điểm càng gần hai cực thì dãn ra rất lớn nên đối với các vị trí gần hai cực (vĩ tuyến 66° [80°] trở lên) người ta dùng phép chiếu khác (chẳng hạn như phép chiếu Gauss-Kruger sẽ đề cập sau). Ngoài ra, cho đến gần đây công dụng chính của bản đồ là dùng để giúp cho việc đi lại. Do đó, điều quan trọng là hướng giữa hai điểm trên bản đồ phải trùng với hướng của hai điểm tương ứng trên trái đất thì người ta mới có thể sử dụng la bàn để đi lại được. Tuy nhiên, phép chiếu vừa trình bày không đảm bảo điều này. Vì thế, Mercator đã mày mò để điều chỉnh công thức (2) hầu như cho từng vĩ độ sao cho bản đồ thoả mãn tính chất đó. Sau này với công cụ tính vi tích phân, logarithm người ta đã tìm được công thức chuyển đổi cho y là:
y = ln ( tan ( Lat/2 + 45°)) (3)
Để thuận tiện cho việc trình bày tiếp, gọi điểm Pm là điểm trên At với AP = y = ln ( tan ( Lat/2 + 45°)). Với hiệu chỉnh này, nói chung điểm Pm không trùng với P’ (trừ trường hợp P trên xích đạo) nên thật ra phép chuyển đổi này không phải là ‘phép chiếu’ theo đúng nghĩa, tuy nhiên theo thói quen người ta vẫn đó gọi là phép chiếu Mercator.
Dễ thấy với công thức (3) [và (1)] thì hình chiếu các vĩ tuyến cũng sẽ trở thành những đường thẳng nằm ngang song song và tính chất cách đều của các vĩ tuyến vẫn không giữ được.
Hiện nay với việc dùng GPS, nên việc bảo toàn hướng của hai điểm qua phép chuyển đổi không là điều quan trọng nên thậm chí người ta có thể hiệu chỉnh công thức chuyền đổi (3) đơn giản hơn thành:
y = Lat (4)
Tức là, trong hình vẽ trên thay vì P’ ta chọn P” làm hình chiếu, với P” là điểm trên At sao cho AP” =  độ dài cung AP.
Phép chiếu này tuy không giữ được hướng giữa hai điểm nhưng bảo đảm chuyển các vĩ tuyến cách đều nhau thành các đường thẳng nằm ngang song song cách đều nhau. Hơn nữa, với các công thức chuyển toạ độ đều là hàm tuyến tính (x = Lon, y = Lat), người ta cũng có thể xử lí việc tính độ dài/ diện tích thực tế dựa trên các số đo trên bản đồ dễ dàng, nhất là trong điều kiện máy tính điện tử được dùng phổ biến hiện nay.
Cũng với kiến thức toán trung học phổ thông dễ dàng chứng minh được là các hàm số liên quan trong các công thức (1), (2), (3) và (4) đều đồng biến. Với công thức (1), điều này có nghĩa điểm Q nào phía Đông [Tây] điểm P thì hình chiếu Q’(Qm, Q’’) của nó vẫn ở phía Đông [Tây] của P’ (Pm, P”), trong đó Qm là cách gọi tương tự như với điểm Pm. Còn với công thức (2), (3) và (4), điều này có nghĩa là điểm Q nào ở phía Bắc [Nam] của P thì hình chiếu Q’ (Qm, Q’’) của nó sẽ ở phía Bắc [Nam] của P’ (Pm, P”). Tức là các bản đồ theo các phép chiếu trên hoàn toàn thoả mãn đòi hỏi tối thiểu của một bản đồ: đảm bảo giữ được vị trí tương đối của các điểm giống như trên thực địa. Và dĩ nhiên mỗi phép chiếu cụ thể còn thêm những thế mạnh khác như đã nêu.
Phần trình bày sơ lược trên cho thấy ba phép chiếu vẽ bản đồ trên đều có các kinh tuyến/vĩ tuyến là đường thẳng song song và các kinh tuyến vuông góc với các vĩ tuyến, đặc biệt phép chiếu thứ ba có cả tính chất rằng khi vẽ thêm vào bản đồ các kinh tuyến và vĩ tuyến cách đều nhau, chẳng hạn cứ mỗi 10° một đường, thì chúng sẽ tạo thành một mạng các ô vuông đều nhau. Đó là điều mà ông Tuấn diễn đạt thiếu chính xác “…các ô ca-rô trên bản đồ đều là hình vuông và bằng nhau” (chỉ cần dùng một khung đã kẻ ô vuông sẵn để vẽ bản đồ lên đó thì bất kì bản đồ theo phép chiếu nào cũng có thể như vậy!).
Nếu có thể kéo dài thời cổ đại tới năm 1569 thì ông Tuấn đúng một phần vì các bản đồ chúng tôi công bố dùng phép chiếu Mercator. Còn phần hàm ý rằng hễ bản đồ có các kinh/vĩ tuyến song song thì trái đất ắt phải hình vuông rõ ràng là một suy diễn thiếu cơ sở vì có ít ra ba cách vẽ bản đồ cho mặt cầu với các kinh tuyến, vĩ tuyến (như vừa mới chỉ ra) thoả một số hoặc tất cả điều ông mô tả.
2. Để làm mạnh thêm lí lẽ do “yếu tố “hình cầu – géodésie” của trái đất” nên kinh/vĩ tuyến trên bản đồ ‘không được phép’ là các đường thẳng song song, đặc biệt là các “… vĩ tuyến [–] cũng là các đường cong, song song với nhau, chiều dài của các đường này không bằng nhau…”, ông Tuấn viện dẫn đến sự khác biệt về độ dài độ dài thật của hai vĩ tuyến trên trái đất (!) và cho thêm ví dụ: cung 1’ ở xích đạo thì dài 1852 m còn cung 1’ ở vĩ tuyến xa xích đạo thì ngắn hơn (điều này đúng) và đặc biệt ở vĩ tuyến 45° thì bằng phân nửa, tức bằng 926  m (=1852 m /2). Phần 1 đã cho thấy toàn bộ khẳng định này là sai nhưng điều tệ hại hơn ở đây là ông cũng không buồn dùng toán phổ thông kiểm lại trước khi vung tay phán rằng cung 1’ ở vĩ tuyến 45° có độ dài bằng phân nửa cung 1’ ở xích đạo (45° ở giữa 0° và 90° nên độ dài cung cũng phải ‘cưa đôi’ chăng?!).
Với hình vẽ trên, dùng quan hệ lượng giác trong tam giác vuông OIP có thể dễ dàng thấy rằng bán kính của đường tròn vĩ tuyến ở vĩ độ Lat là
r = IP = OP× cosLat =R × cosLat (trong đó R là bán kính trái đất)
Do đó, một cung có số đo α trên đường tròn vĩ tuyến ở vĩ độ Lat sẽ có độ dài là
s = r × α = (R cosLat) × α = (R × α) × cos Lat = S × cos Lat
(trong đó S là độ dài cung ở xích đạo có số đo α).
Với công thức trên, độ dài xấp xỉ[2] của cung 1’ ở vĩ tuyến 45° phải là =1852 m × cos 45° ≈ 1310 m. Muốn được độ dài ‘cưa đôi’ như ông Tuấn thì cung đó phải nằm trên vĩ tuyến 60° (cos60° =1/2)!
3. Để bài bác bản đồ chúng tôi vẽ, ông Tuấn cũng lập luận thêm rằng “[b]ộ bản đồ VN-Trung Quốc vừa được công bố được vẽ theo hệ thống tọa độ WGS 84 (World Geodetic System 1984), theo phép chiếu Gauss-Kruger, lấy kinh tuyến trung tâm 105° và múi chiếu 6°”, và hàm ý rằng bản đồ chúng tôi vẽ không theo hệ thống này nên phạm sai lầm. Chỗ này hình như ông Tuấn hiểu nhầm khi đọc Nghị định thư 2009. Điều 3 Nghị định thư nêu rằng:
"1. Tọa độ địa lí trong Nghị định thư này sử dụng hệ tọa độ mặt đất năm 1984 (hệ tọa độ WGS-84); chuẩn độ cao sử dụng mô hình trường trọng lực toàn cầu năm 1996 (EGM96).
2. Tọa độ vuông góc mặt phẳng của cột mốc giới liệt kê trong “Bảng đăng ký mốc giới” và “Bảng kê tọa độ và độ cao mốc giới” được tính toán, chuyển đổi từ tọa độ địa lí của cột mốc giới đó qua phép chiếu Gauss-Kruger, theo múi chiếu 6°. Tất cả các cột mốc đều có một bộ thành quả tọa độ vuông góc mặt phẳng tính toán, chuyển đổi theo đường kinh tuyến trung ương 105° kinh độ Đông; các cột mốc nằm ở 108° kinh độ Đông về Đông có thêm bộ thành quả tọa độ vuông góc mặt phẳng được tính toán, chuyển đổi theo đường kinh tuyến trung ương 111° kinh độ Đông." (những chỗ in nghiêng hay làm đậm là của người viết bài này)
Không có chỗ nào khác nữa trong Nghị định thư nói về phép chiếu Gauss-Kruger. Như vậy, có thể nói theo Nghị định thư này thì phép chiếu Gauss-Kruger chỉ dùng để chuyển đổi từ toạ độ địa lí sang toạ độ vuông góc mặt phẳng của các cột mốc, chứ không phải để vẽ bản đồ như ông Tuấn ngộ nhận.
Ngoài ra, lưu ý rằng phần mềm chuyên dụng vẽ bản đồ của chúng tôi dùng toạ độ địa lí (không phải toạ độ vuông góc mặt phẳng) theo hệ WGS84 là đúng với hệ toạ độ địa lí của các cột mốc. Hơn nữa, bản đồ của CIA DataBank II cũng theo hệ toạ độ này và theo cùng phép chiếu Mercator với phần mềm nên hoàn toàn không có sự không ăn khớp như ông Tuấn nghĩ.
3. Nhân đây cũng xin được giới thiệu thêm về phép chiếu Gauss-Kruger mà tôi có đề cập ở trên. Phép chiếu này là một ví dụ cho thấy rằng cũng có những phép chiếu vẽ bản đồ không cho các kinh/vĩ tuyến là đường thẳng như ông Tuấn nói, nhưng đồng thời lại cũng cho thấy thêm khẳng định của ông Tuấn rằng “… trên bất kỳ một tấm bản đồ nào, các đường kinh tuyến  không phải là đường thẳng mà là đường cong … . Các … vĩ tuyến [] cũng là các đường cong, song song với nhau” là sai trái. Phép chiếu Gauss-Kruger thật ra chỉ là một biến thể của phép chiếu Mercator với mặt trụ bây giờ tiếp xúc mặt cầu ở hai kinh tuyến đối nhau, và thường được dùng để vẽ từng múi rộng 6° của trái đất. Trong phép chiếu này các vĩ tuyến và các kinh tuyến nói chung không còn là các đường thẳng [song song] như phép chiếu Mercator (xem hình minh hoạ sau). Lưu ý rằng trong bản đồ ở hình này có ba đường thẳng song song (không phải tất cả là đường cong!) thì đường chính giữa là xích đạo còn hai đường thẳng song song kia lại là bốn ‘nửa’ kinh tuyến hợp lại (từ hai kinh tuyến vuông góc với hai kinh tuyến đó). Hơn nữa, trên đó lại có nhiều kinh tuyến gồm hai cung rời nhau (do bị tách ra khi khai triển mặt trụ) chứ không phải là những đường cong liền lạc! Qua hình minh hoạ bạn đọc cũng có thể thấy được việc xác định toạ độ địa lí của một điểm trên bản đồ Gauss-Kruger là điều không dễ dàng. Vì vậy, ông Tuấn có thể đã không chính xác khi nói “… bản đồ… được vẽ theo hệ thống tọa độ WGS 84 … theo phép chiếu Gauss-Kruger” vì vẽ theo phép chiếu Gauss-Kruger mà dùng hệ toạ độ WGS84 là điều hầu như không thực hiện được, nếu không chuyển đổi thành toạ độ vuông góc (dùng đơn vị độ dài, như m trong ‘bảng toạ độ cột mốc’).[3]
clip_image004
Ngoài ra, cũng có nhiều phép chiếu bản đồ khác (như các phép chiếu ‘cầu lên nón’, ‘cầu lên phẳng’) cũng cho thấy khẳng định vừa nêu của ông Tuấn chỉ là nói bừa, nhưng có lẽ không cần thiết để trình bày thêm ở đây.
4. Cuối cùng xin lưu ý rằng toạ độ các cột mốc chúng tôi lấy từ ‘bảng toạ độ’ đăng trên công báo số 680+681 có đối chiếu với các toạ độ trong bản Nghị định thư (dạng scan) cũng trên công báo từ số 634+635 tới số 640+641 (bản này có chữ kí giáp lại từng trang của hai phía Việt, Trung) nên có thể là đáng tin. Phần mềm do công ti chuyên ngành làm ra nên khó có lí do để nghi ngờ. Chỉ còn biên giới Việt - Trung theo bản đồ của CIA là chúng tôi chưa rõ họ vẽ dựa trên dữ liệu nào.
Trong khi chưa có một bản đồ biên giới có độ chính xác chuyên ngành theo công ước Pháp - Thanh (mà Việt Nam và Trung Quốc thống nhất dùng làm căn cứ chính), chúng tôi cho rằng việc dùng bản đồ CIA kết hợp với toạ độ các cột mốc công bố chính thức theo Nghị định thư và phần mềm chuyên dụng sử dụng đúng hệ toạ độ để vẽ ra bản đồ cột mốc biên giới là việc làm có ý nghĩa. Trước nhất, đó là bản đồ với độ chính xác chuyên ngành đầu tiên thể hiện tất cả cột mốc và điểm biên giới theo Nghị định thư mà cộng đồng người Việt thấy được sau ngày kí kết, góp phần lấp đi phần nào khoảng trống thông tin cần có mà người dân chưa được biết. Thứ hai, đó cũng là một tài liệu đáng tham khảo, chẳng hạn nếu thấy có những bất thường bất lợi cho Việt Nam trên bản đồ, chúng ta có thể đào sâu tìm hiểu thêm về những chỗ cụ thể đó để có những hành động thích hợp trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước (thực tế là điều này không xảy ra cho bản đồ đã công bố dùng ‘biên giới của CIA’). Thứ ba, việc làm này cũng có thể có tác dụng thúc đẩy nhà nước sớm công bố bản đồ chính thức cho nhân dân. Và dĩ nhiên, do còn yếu tố ‘biên giới của CIA’ chưa thật rõ nên chưa thể rút ra bất kì kết luận nào từ các bản đồ này
Hi vọng rằng sẽ có những bạn đọc có quan tâm hoặc có chuyên môn dùng các nguồn khác nhau phối kiểm lại toạ độ các cột mốc, dùng phần mềm khác và bản đồ có biên giới khác lập ra những bản đồ mới tương tự chính xác và có chất lượng hơn góp phần vào công việc chung này.
Tóm lại, như đã phân tích ở trên các bản đồ mà chúng tôi cho công bố là cần thiết và có ích. Hơn nữa, chúng hoàn toàn không có vấn đề gì về kĩ thuật như ông Tuấn đã nhầm lẫn. Từ đó, câu trả lời cho bạn đọc đối với câu hỏi của ông Tuấn là: “Vâng, có thể vẽ như thế!”.
P. V. S.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
[1] Các công ti lớn vẫn đang dùng/in bản đồ Mercator hay biến thể của Mercator American Map Company, Google MapsBing MapsOpenStreetMapMapQuestYahoo Maps, …
[2] Dùng từ ‘xấp xỉ’ vì trái đất không hẵn là hình cầu như đã nêu.
[3] Dùng từ ‘có thể’ vì qua câu văn trích của ông Tuấn, tôi không rõ ông có hàm ý có chuyển đổi toạ độ hay không và lưu ý rằng việc chuyển đổi toạ độ cũng không đơn giản như bạn đọc có thể hình dung qua hình.
http://boxitvn.blogspot.jp/2013/09/co-that-ve-vay-khong-uoc.html


---

Bổ sung 1


25/09/2013


Góp ý về “bộ bản đồ các mốc giới Việt-Trung”

Mai Thái Lĩnh
Bộ bản đồ mốc giới do hai ông Dương Danh Huy và Phan Văn Song thực hiện vừa được giới thiệu trên hai trangBauxite Vietnam và Dân Luận cách đây khoảng một tuần đã gây ra một cuộc tranh luận khá gay gắt giữa nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn với các nhà nghiên cứu thuộc Quỹ Nghiên cứu Biển Đông.
Trong bài viết này, tôi không góp ý về khía cạnh kỹ thuật - một vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn, xin để dành riêng cho các chuyên gia trong lĩnh vực bản đồ học và trắc địa học góp ý và thảo luận. Tôi chỉ xin mạn phép đóng góp một số ý kiến xung quanh một phương diện khác có liên quan đến bộ bản đồ này, đó là: mục đích và ý nghĩa của việc thiết lập bộ bản đồ mốc giới trong hoàn cảnh hiện nay.

1) Tại sao phải xây dựng bộ bản đồ mốc giới?
Theo tôi, việc xây dựng bộ bản đồ mốc giới có lẽ sẽ không cần thiết nếu Chính phủ Việt Nam công bố toàn bộ các bản đồ chi tiết của vùng biên giới Việt-Trung liên quan đến hiệp định biên giới 1999 – hoặc ít nhất là bản đồ của các khu vực tranh chấp đã gây ra nhiều hoài nghi, thắc mắc trong dư luận.
Trong bài “VN có nhượng bộ TQ về biên giới không?” đăng tải trên BBC tiếng Việt ngày 16-9-2013, nhà nghiên cứu Dương Danh Huy (thuộc Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) đã phát biểu: “Nhưng cho tới nay, mặc dù tọa độ của các cột mốc đã được công bố, vẫn chưa có thông tin đầy đủ và minh bạch về cuộc đàm phán dẫn đến chúng.”
Thật ra, không chỉ công bố tọa độ của các cột mốc, Chính phủ cũng đã công bố bộ bản đồ của đường biên giới Việt-Trung trên Công báo số 642-649 ngày 16-11-2010[1]:
Điều đáng nói là bộ bản đồ này có kích cỡ hết sức “khiêm tốn”: chỉ có 46,5 MB cho 35 tờ bản đồ (nghĩa là trung bình mỗi tờ bản đồ chỉ có kích thước trung bình 1,3 MB), trong khi các bản đồ 1:50.000 của Quân đội Hoa Kỳ hoặc của Quân đội Nhân dân Việt Nam mà tôi và bạn bè tìm thấy được trên trang mạng của một số trường đại học tại Hoa Kỳ có kích cỡ trung bình từ 6 đến 15 MB cho mỗi tờ bản đồ. Hậu quả là các nhà nghiên cứu dù có trong tay các bản đồ biên giới Việt-Trung cũng không thể đối chiếu, so sánh với các bản đồ cũ sưu tập được để có thể khẳng định chắc chắn Việt Nam mất bao nhiêu đất. Lý do đơn giản là khi phóng to lên thì các chi tiết hết sức mờ mịt. Vd: đường biên giới xung quanh khu vực Hữu Nghị Quan với chi chít những cột mốc mới, khi phóng to lên thì ngay cả con số của cột mốc cũng không thể nhìn rõ chứ chưa nói đến vị trí của từng cột mốc.
Có lẽ vì lý do đó mà hai ông Dương Danh Huy và Phan Văn Song phải bỏ công sức để thiết lập bộ bản đồ các mốc giới biên giới Việt-Trung – dựa trên các dữ liệu đã được công bố trong các số Công báo của Chính phủ.
Tuy nhiên, giả định rằng bộ bản đồ cột mốc biên giới đó đạt được tiêu chuẩn về kỹ thuật mà các bộ môn bản đồ học (cartography), trắc địa học (geodesy) đòi hỏi, thì vấn đề đặt ra là : làm thế nào để bộ bản đồ đó giúp cho người dân Việt (dù ở trong nước hay đang mang quốc tịch nước ngoài nhưng tấm lòng vẫn nặng tình quê hương) giải đáp được câu hỏi: “Việt Nam được hay mất khi ký hiệp định biên giới trên bộ 1999 với nhà cầm quyền Trung Quốc”?
Ở đây, tôi xin lưu ý một điều quan trọng – mà tôi thường nhấn mạnh trong các bài viết của tôi về Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc: khi nói đến khái niệm được-mất, chúng ta không nên quá chú ý đến các con số (diện tích, chiều dài, v.v.) mà quên đi ý nghĩa thật sự của từng mảnh đất biên cương. Ví dụ: nếu ta được thêm một số đất đai ở trên cao nhưng lại không có đường thông thương đến đó, cũng không thể đóng quân trên đó để giám sát đường biên giới thì cái phần “được” coi như không có lợi ích gì; ngược lại nếu ta chỉ mất một chút ít ở một vùng xung yếu nào đó mà khi xảy ra chiến tranh, “nước bạn” có thể dùng cao điểm đó để khống chế ta, thì phần “mất” ấy là cực kỳ to lớn. Đó là chưa kể đến tài nguyên nằm dưới lòng đất hoặc ý nghĩa đối với lịch sử dân tộc của các địa điểm bị mất về tay ngoại bang.
Nhưng nếu muốn đạt được mục đích nêu trên thì bản đồ mốc giới phải được so sánh với các bản đồ mà chúng ta nắm chắc được dữ liệu, chứ không nên so sánh với bản đồ của CIA – mà chính các tác giả cũng không biết được xây dựng dựa trên cơ sở nào. Xin trích lại nguyên văn lời của ông Dương Danh Huy: “Xin lưu ý rằng chúng ta không biết CIA World DataBank II đã dùng cơ sở nào để vẽ biên giới Việt-Trung (trước hiệp định 1999), và mức độ đáng tin cậy của nó là bao nhiêu.”
Tôi thật tình không hiểu: nếu đã không biết CIA dựa trên cơ sở nào để vẽ biên giới Việt-Trung thì so sánh làm gì để gây ra ngộ nhận? Tôi xin ghi lại ý kiến của một độc giả đã phản hồi trên tờ Dân Luận:
“Công Nhân-Khách (khách viếng thăm) gửi lúc 06:29, 17/09/2013 - mã số 97659
Cảm ơn Dương Danh Huy và Phan Văn Song vì những thông tin khách quan và bổ ích. Tuy nhiên có vẻ như là các cột mốc biên giới mới của Việt Nam lấn sang đất Trung Quốc nhiều hơn so với bản đồ của CIA. Nhưng đây chỉ là cảm nhận bằng mắt thường nên sợ không chính xác lắm. Nếu các tác giả sử dụng các phần mềm mà chỉ ra được cụ thể hơn số diện tích mà Việt Nam được/mất so với bản đồ của CIA thì tốt quá. Ngoài ra, không biết liệu hai tác giả có thể làm cách nào so sánh cả biên giới từ Hiệp Ước Pháp-Thanh với biên giới của CIA và biên giới từ Hiệp Đinh Biên Giới Việt-Trung được không? Một lần nữa cảm ơn Dương Danh Huy và Phan Văn Song vì những thông tin khách quan và bổ ích.
Ý kiến phản hồi vừa trích cho thấy công trình của hai nhà nghiên cứu Dương Danh Huy và Phan Văn Song dễ gieo cho người xem cái “cảm nhận” rằng Việt Nam “lấn sang đất của Trung Quốc” (!). Đưa ra cách so sánh dễ gây ra ngộ nhận, để rồi sau đó lại phải đính chính; theo tôi đó chính là sơ suất của ông Dương Danh Huy. Đó cũng chính là nguồn gốc của sự phản ứng tự nhiên (tuy hơi thái quá) của ông Trương Nhân Tuấn.
Về phần ông Trương Nhân Tuấn, nếu ông phản biện với giọng văn từ tốn, ôn hòa hơn và tránh đừng gộp chung hai trang Bauxite Vietnam và Dân Luận vào danh sách của “đàn cừu” hoặc các “dư luận viên” thì có lẽ chúng ta đã tránh được một cuộc tranh cãi gay gắt giữa lúc tất cả những người yêu nước thuộc mọi xu hướng chính trị đang cần phải tập trung vào cùng một mục tiêu : bảo vệ chủ quyền quốc gia dựa trên lợi ích chung của toàn dân tộc.
Cho dù sự đánh giá lúc đầu của BBT tờ Bauxite Vietnam là không chính xác thì việc ám chỉ Ban biên tập của hai trang mạng nói trên bằng các khái niệm “đàn cừu” hay “dư luận viên” hoặc việc gộp chung nhóm Bauxite Vietnam với nhómQuỹ Nghiên cứu Biển Đông (mà tác giả Trương Nhân Tuấn gọi một cách mỉa mai là “các học giả Bô Xít” và “các học giả Quĩ nghiên cứu Biển Đông”) chẳng những xúc phạm đến các trí thức trong nước đang đấu tranh cho công cuộc dân chủ hóa đời sống chính trị của đất nước mà còn có nguy cơ tạo điều kiện cho hệ thống các “dư luận viên” lợi dụng. Những người thường xuyên theo dõi mạng Internet không thể không biết hiện nay các thế lực “đen” đang lập một loạt các trang mạng nặc danh mà một trong mục tiêu công kích hàng đầu của họ là GS Nguyễn Huệ Chi và những người sáng lập trang mạng Bauxite Vietnam. Hơn thế nữa, hai trang mạng nói trên là hai trang đang thường xuyên đăng bài viết của tôi và một số nhà nghiên cứu khác về vấn đề biên giới Việt-Trung, không lẽ hai trang đó lại tiếp tay để “định hướng dư luận” theo hướng có lợi cho những người thực hiện chính sách bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc?
Nói thế không có nghĩa là tôi luôn bênh vực cho trang Bauxite Vietnam bằng bất cứ giá nào, bất chấp mọi nguyên tắc, bất chấp sự thật và phương pháp tư duy khoa học. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng trong khoa học, chúng ta có thể phê bình thẳng thắn, không kiêng dè, húy kỵ bất cứ một “thần tượng”, một “giáo điều” nào cả, nhưng rất cần phải tôn trọng lẫn nhau và phải bảo vệ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống lại một trong những bộ máy chuyên chính (dictatorial) khắc nghiệt và nhiều thủ đoạn nhất trên thế giới.
2) Làm thế nào để bộ bản đồ các mốc giới trở nên có ích?
Để bộ bản đồ các mốc giới đạt được yêu cầu mà người dân mong đợi, trước hết nó phải đạt được yêu cầu về mặt kỹ thuật. Nói cách khác, những người có kiến thức chuyên môn thay vì cãi vã để khoe kiến thức hay để đả kích lẫn nhau, nên cùng nhau hợp tác để làm nên một bộ bản đồ mốc giới khả dĩ có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh hiện nay.
Mặt khác, trong khi chờ đợi Đảng cộng sản Việt Nam công khai hóa các tài liệu về biên giới – một khả năng mà hầu hết những trí thức có tư duy độc lập đều ngầm hiểu rằng “rất khó xảy ra dưới một chế độ độc tài toàn trị”, chúng ta nên tìm cách so sánh nó với các bộ bản đồ cũ xuất bản trước năm 1975. Hiện nay, tại Vietnam Center and Archive trên trang mạng của Đại học Kỹ thuật Texas (Texas Tech University) có một bộ bản đồ 1:50.000 của toàn miền Bắc phát hành vào giữa thập niên 1960 tại địa chỉ:
clip_image002
Có lẽ các nhà nghiên cứu trong Quỹ Nghiên cứu Biển Đông nên tham khảo bộ bản đồ này để so sánh với bộ bản đồ mốc giới mới thì hợp lý hơn là tham khảo CIA World DataBank II, vì dữ liệu của CIA không biết dựa trên cơ sở nào.
Tất nhiên, vì bộ bản đồ mà tôi giới thiệu sử dụng hệ thống tọa độ UTM (Universal Transverse Mercator coordinate system) chứ không phải hệ thống WGS84 (World Geodetic System 1984) cho nên phải chuyển đổi (convert) dữ liệu để có thể so sánh một cách phù hợp.
Bộ bản đồ của Vietnam Center and Archive có lẽ do các cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến ở Việt Nam sưu tập. Nó gồm cả các bản đồ do Cục bản đồ của Quân đội Hoa Kỳ (Army Map Service, AMS) phát hành giữa thập niên 1960 lẫn các bản đồ mà Quân đội Nhân dân Việt Nam in lại sau năm 1975. Tất cả đều có nguồn gốc từ các bản đồ của Sở Địa Dư Đông Dương (Service géographique de l’Indochine, SGI), nhưng đã được nâng cấp nhờ các phương tiện kỹ thuật hiện đại của Hoa Kỳ (vd: kỹ thuật chụp không ảnh). Trước đây, tất cả các bản đồ này đều được lưu trữ tại Nha Địa Dư Quốc gia tại Đà Lạt nhưng vào khoảng thập niên 1990 đã được chuyển hết ra miền Bắc, Nha Địa Dư tại Đà Lạt chỉ còn là một Xí nghiệp In Bản đồ của Quân đội.
Ngoài bộ bản đồ nói trên, còn có nhiều bộ bản đồ khác được lưu trữ tại các thư viện khác ở Hoa Kỳ. Vd: Thư viện Perry-Castañeda của Đại học Texas tại Austin (The University of Texas at Austin); tại đây, chúng ta có thể tìm thấy một số bản đồ của Quân đội Hoa Kỳ liên quan đến vùng biên giới Việt-Trung.
So sánh bản đồ mốc giới mới với các bản đồ cũ của Nha Địa dư Quốc gia tại Đà Lạt, chúng ta mới có hy vọng tìm hiểu những mất mát của đất nước ta khi ký hiệp định 1999. Và hiểu rõ được những mất mát đó, chúng ta mới có thể sửa chữa những lỗi lầm đã xảy ra trong quá khứ để hướng đến việc bảo vệ chủ quyền tại Biển Đông.
Bỏ quên những bài học của quá khứ, không rút kinh nghiệm từ sự thất bại của Hiệp định Biên giới 1999, nhất định chúng ta sẽ tiếp tục thất bại tại Biển Đông. Đó là chính là bài học đau thương mà cả dân tộc chúng ta phải ghi nhớ nếu không muốn lặp lại những “hội nghị Thành-Đô” của thế kỷ 21 hay những mất mát, đau thương tương tự như việc mất quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, mất bãi đá Gạc Ma (Johnson South Reef) tại Trường Sa vào năm 1988, v.v…
Đà Lạt ngày 24-9-2013
M.T.L.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
[1] Theo Facebook Tin Không Lề thì bộ bản đồ này mặc dù là Công báo đề ngày 16-11-2010, trong thực tế chỉ mới xuất hiện trên mạng vào lúc 23h26'52" GMT, ngày 10/08/2013, tức là cách nay đúng 1 tháng 2 tuần.
[2] Để tải xuống, click vào Accessing the Map Collection - Map Search Page, chọn Navigate the Country - North Vietnam.

http://boxitvn.blogspot.jp/2013/09/gop-y-ve-bo-ban-o-cac-moc-gioi-viet.html
---

Những entry liên quan đã đi trên blog này:



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.