Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

27/07/2014

Mai Quốc Liên soi công việc dịch "Nhật ký trong tù" của Huệ Chi

Loạt bài gồm nhiều phần của Mai Quốc Liên đi trên Hồn Việt (do chính bác là tổng biên tập) từ vài năm trước. Đề cập đến quá nhiều vấn đề, bản thân người đọc không tự "quán xuyến" được việc đọc của mình, nên chỉ nhặt riêng phần về Nhật ký trong tù mà thôi.

Để lưu tư liệu, thì vẫn đưa toàn văn về đây. Nhưng vẫn cần nhắc lại, tôi chỉ quan tâm đến đoạn về Nhật ký trong tù là cái mình nắm được vấn đề mà thôi.

Hiện chưa thấy bác Huệ Chi có trao đổi bằng văn bản lại về đoạn liên quan đến Nhật kí trong tù ở dưới đây (hay là có rồi, đã phát biểu ở đâu đó, mà tôi chưa biết). 

Riêng chỗ dẫn nguồn tư liệu thì tôi thấy bác Mai Quốc Liên chưa ghi rõ, sẽ gây khó hiểu cho người không nắm rõ vấn đề (chẳng hạn, ghi như sau: "NKTT, NXB Chính trị Quốc gia, tr.139"). Dĩ nhiên, người biết, hẳn sẽ hiểu bác chỉ cuốn sách nào. 


Cả đoạn đó như sau (mạn phép tự ý xuống hàng ở vài chỗ khác với nguyên bản, để dễ đọc hơn):

"
Trường hợp này cũng xảy ra giữa ông NHC và bản dịch Ngục trung nhật ký của Nam Trân (1907-1967). 

Nam Trân từng dạy ông NHC ở lớp Đại học Hán học (1965-1969) về thơ Đường – Tống, vừa là người lãnh đạo ông (cụ Cao Xuân Huy, Tổ trưởng, ông Nam Trân, Nguyễn Văn Hoàn, Phó tổ trưởng, ông NHC tổ viên). Lại là bậc tiền bối (Nam Trân sinh 1907, NHC 1938). Nam Trân Nguyễn Học Sĩ đậu Tú tài bản xứ tiếng Pháp thời Tây; nghiên cứu văn học phương Tây (cổ Hy-La); Hán học thì dịch thơ Đường – Tống, Kinh Thi, cổ văn... chữ tốt đến nhân sĩ Trung Quốc cũng vui lòng xin chữ và in thơ chữ Hán của ông trên tờ Thi san của Hội Nhà văn Trung Quốc. Ông lại là tác giả Huế – Đẹp và Thơ mà Hoài Thanh nhận rằng thơ ông "biệt riêng thành một lối" (Thi nhân Việt Nam). 

Nam Trân mất (1967), hơn chục năm sau, ông NHC đem ra "duyệt" lại bản dịch của thầy và bậc tiền bối đó. Ngoài mấy bản dịch mới hoàn toàn, còn thì, ông đã sửa chữa: 8 bài sửa 1 từ, 4 bài sửa 2 từ, 1 bài sửa 3 từ, 3 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 3 từ, 1 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 5 từ, 15 bài sửa từ 6 từ trong 3 câu trở lên. Chỉ sửa chữ, không sửa vần! Sửa có 1 chữ cũng ký tên mình vào! Thí dụ thì vô khối.

Bài Dạ túc Long Tuyền, 3 câu trên gần như lấy lại nguyên văn, đến câu 4, Nam Trân dịch:
Mừng sáng nghe oanh hót xóm gần
(Cách lân hân thính hiểu oanh đề: Mừng nghe chim oanh bên láng giếng báo sáng) (Nhật kí trong tù, 1960, tr.66).
Ông NHC bèn chữa lại:
Oanh sớm, mừng nghe hót sớm gần
rồi ký tên mình ở bên cạnh. Đúng là "lợn lành chữa thành lợn què"! 

Câu thơ dịch của Nam Trân đã là tối ưu so với câu thơ nguyên tác, xuôi thuận, đẹp về tiếng Việt. Còn oanh sớm là oanh gì? Có oanh chiều, oanh tối không? Hiểu là sáng sớm, ở đây nó là trạng ngữ của oanh, con chim oanh hót vào buổi sáng sớm, tức là nó báo sáng, chứ oanh sớm thì tiếng Việt chẳng ai nói thế, viết thế cả.

Bài Chúc than (Hàng cháo), ông Nam Trân: quán rượu, ông NHC chữa tiệm rượu, ông Nam Trân: chỉ có cháo hoa..., ông NHC:nào món cháo hoa... thế là đứng tên! Bài thơ tả một quán nghèo, quán cóc trên đường, quán chỉ bán cháo hoa, muối trắng. Vậy cách dịch chỉ có thật đúng cái thần của câu thơ, còn nào món là có ý tán dương món ăn ở quán ư!?

Tệ nhất là có bản chỉ chữa 1 chữ, các vị cũng đề tên mình vào bản dịch cũ. Mà chữa thế nào: Nam Trân: sách xưa – sách mới (cựu quyển – tân thư) nay sửa quyển xưa – sách mới (cho đúng nguyên văn, dịch theo chữ!), rồi hân hạnh đứng tên! (Xem bài "Nạn hữu đích chỉ bị" – Chiếc khăn giấy của người bạn tù. NKTT, NXB Chính trị Quốc gia, tr.139).

"



http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:OzFS9cpZifUJ:honvietquochoc.com.vn/bai-viet/4311-tieu-luan-va-phe-binh-van-hoc-tiep-vu-cao-chinh-tri-map-mo-hoc-thuat-phan-2.aspx+&cd=1&hl=en&ct=clnk&gl=vn




---
Những entry liên quan đã đi trên blog này:
















---

LƯU TOÀN VĂN 
(cóp nguyên từ Hồn Việt về)

Nguồn



Vu cáo chính trị, mập mờ học thuật


Mai Quốc Liên





1. Không hề có phát biểu cũng như điện thoại...

Ông Nguyễn Huệ Chi, trên một mạng nước ngoài, khi nói đến Thơ Trần Dần, có "nhã ý" tặng tôi câu chuyện: vì có cú téléphone của tôi mà cuốn sách bị ngưng phát hành. Ban đầu, tôi thấy ông gọi tôi là "ông X" (cũng có thể do ở mạng mà tôi nhận họ dè dặt để thế, còn một nhà nghiên cứu thì cho biết anh đọc thấy thẳng tên), nhưng sau đó, trên e-mail thì ghi MQL.
Đây là một sự bịa đặt hoàn toàn, trắng trợn, một sự vu cáo chính trị, bởi vì ông Nguyễn Huệ Chi đang đưa đơn đến nhiều cơ quan công quyền về cuốn Thơ Trần Dần.
Xin nói ngay là: tôi không hề biết, và cũng không hề liên quan gì đến cuốn Thơ Trần Dần. Đến lúc nó in ra, nhân ngày Thơ Việt Nam, một vài tờ báo đưa tin về nó, tôi mới biết. Rồi tôi chuẩn bị gấp gáp ra Hà Nội tổ chức cuộc họp Hội đồng Khoa học của Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học nghiệm thu 15 công trình của Trung tâm, đồng thời dự một số buổi họp khác, nên không hề quan tâm tới chuyện này.
Lấy đâu ra cú téléphone trong hoang tưởng của ông Huệ Chi? Cái cú téléphone ấy gọi ngày nào, cho ai, ông đã nói ra chắc nịch như thế thì hẳn ông phải có chứng cớ. Ông có dám đưa chứng cớ ấy ra không?
Ông lại còn bịa đặt nữa rằng, trong cuộc họp Hội đồng Lý luận – Phê bình TƯ, tôi nói về vụ Thơ Trần Dần. Cuộc họp ấy chỉ diễn ra trong vòng 2 tiếng để bàn về Quy chế và Kế hoạch của Hội đồng, tuyệt nhiên tôi không đả động gì đến Thơ Trần Dần cả, một từ cũng không. Biên bản, ghi âm, và tất cả các vị có mặt buổi họp 6/3 tại số 7 Nguyễn Cảnh Chân còn đủ. Ông Huệ Chi moi ở đâu ra tình tiết ấy? Ông Nguyễn Xuân Đức, Chánh Văn phòng Hội Đồng Lý luận – Phê bình TƯ cho tôi biết hôm 14/3 rằng ông ta đã điện thoại cho ông để xác quyết là tôi không hề nói gì về Thơ Trần Dần trong các cuộc họp và ông Xuân Đức sẽ cải chính tin này trên báo.
Thông tin của ông một lần nữa lại sai, và sai theo hướng có chủ định, để vu cáo. Ông cho rằng, vì tôi gọi điện thoại mà cuốn Thơ Trần Dần bị đình chỉ lưu hành, trong khi ai cũng biết nó chỉ bị "phạt vạ" vì thủ tục giấy tờ in ấn sao đó.
Không những dựng đứng sự việc, cái nguy hiểm là ông Huệ Chi lấy đó làm cái cớ để viết những lời thóa mạ tôi đủ điều, với một giọng hằn học, thô bỉ, rất không xứng đáng với một người có học, nhưng rất xứng đáng được đưa ra tòa vì tội vu cáo, và mạ lị người khác, theo điều 175, của Bộ luật hình sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Điều đáng nói nữa là ông Nguyễn Huệ Chi còn gửi e-mail trao đổi qua lại với một số người để tung tin vu cáo và mạ lị, đồng thời toa rập với họ để đạt ý đồ xấu trong vụ này. Trong số này, có ông Nguyễn Ngọc Giao (hiệu Kiến Văn) ở Pháp, người mà cách đây 20 năm đã viết bài xuyên tạc về Đại hội Nhà văn lần thứ 4 (1989) và tôi đã viết bài Hãy để những lời nói dối bay đi đưa số liệu và ý kiến cải chính. Trong bài đó cũng như lần này, tôi xin nhắc lại với ông Kiến Văn Nguyễn Ngọc Giao câu của Khổng Tử có hai chữ Kiến Văn: "Đa văn khuyết nghi..., đa kiến khuyết đãi..., lộc tại kỳ trung hĩ" (Nghe nhiều mà để khuyết điều nghi..., thấy nhiều mà để khuyết điều ngờ..., lộc ở trong đó vậy). Đó là cái hoài nghi khoa học mà ông Kiến Văn thừa biết khi ở giữa Paris. Vậy mà, ông hùa theo ông Huệ Chi viết ra những lời vu cáo đáng xấu hổ. Ông nói rằng tôi hay viết thư (thư nào? Ông có cái thư nào đó không?). Tôi xin nói với ông Kiến Văn rằng, đường đường là một công dân của đất nước CHXHCN Việt Nam, tôi có đầy đủ tư cách và tự do để đàng hoàng nói rõ công khai ý kiến của mình, như tôi đã và đang nói với ông đây, việc gì tôi phải làm việc mà các ông gán cho là khuất tất?
Lập trường chính trị của ông và ông Huệ Chi khác xa với tôi lắm. Nhưng ông Kiến Văn và ông Huệ Chi, bất cứ làm chính trị gì, chính trị chống đối dưới vỏ bọc đòi "dân chủ – tự do", trước tiên các ông phải công minh, thẳng thắn, chính trực, chứ không được bịa đặt theo tình cảm yêu – ghét cá nhân. Chính trị, politique, nghĩa gốc là thủ đoạn nào hơn là cái chính trị chân thật, tín nghĩa.
Như vậy tóm lại, đây là một vụ dựng đứng, không tiền khoáng hậu nhằm mục đích vu cáo và hạ sát cá nhân.
Nhân đây, tôi cũng xin bày tỏ tóm tắt thêm về thái độ của tôi đối với ông Trần Dần, thơ Trần Dần... (một dịp khác, thong dong và thuận tiện hơn, tôi mong rằng sẽ được dịp trình bày kỹ hơn). Khi vụ Nhân Văn giai phẩm xảy ra, tôi còn học phổ thông trung học, nên không biết rõ. Kịp đến khi vào đời, đọc một số sách báo, và qua tìm hiểu ở nhiều người, tôi mới dần rõ hơn. Căn cứ vào tình hình nước ta, ở miền Bắc và cả ở miền Nam, cũng như tình hình thế giới lúc ấy (các vụ việc ở Ba Lan, Hunggari, cả Trung Quốc...), nói tắt, đó là tình hình chiến tranh một phía ở miền Nam, tàn sát hàng triệu người yêu nước, và tình hình chiến tranh lạnh giữa hai phe, thì các hoạt động, phát ngôn... của ông ấy là sai. Nhưng các ông này không phải chủ mưu (chủ mưu bị bắt tù), mà chỉ là hùa theo, với máu nóng văn nghệ. Các ông này bị kỷ luật (vì là cán bộ Nhà nước, Đảng viên, có người giữ vị trí lãnh đạo). Nhưng kỷ luật lâu quá, lẽ ra 3 năm mà kéo mãi đến 30 năm, thì người ta thiệt thòi, mà vợ con khổ lây vì cái án "Nhân Văn". Đại khái là như vậy.
Năm 1964, có chủ trương điều cán bộ một số cơ quan đi "biệt phái" làm thủy lợi: anh Nguyễn Nghiệp và tôi ở Viện Văn học, anh Trúc Cương ở Bộ Văn hóa, anh Phùng Quán cũng ở Bộ Văn hóa, họp thành một tổ công tác tuyên truyền – tuyên huấn ở đại công trường thủy nông Cổ Đam – Hà Nam. Hàng ngày chúng tôi viết tin bài động viên công nhân, rồi thì đi câu cá ở sông Đáy; cuối tuần về Hà Nội thăm nhà. Công việc cũng nhẹ nhàng; Phùng Quán năm ấy có làm bài thơ về anh Nguyễn Văn Trỗi khá hay. Phùng Quán, Trúc Cương và tôi khá thân nhau, hay rủ nhau vào xóm thăm dân; và bàn luận văn chương thi phú. Phùng Quán rất thích kể chuyện, chuyện thật có, chuyện "hư cấu" cũng có, và kể có duyên; đọc thơ theo khẩu khí "thơ quảng trường Maiakovski" cũng rất có duyên. Tình cảm của tôi và Phùng Quán bắt đầu từ dạo đó. Sau năm 1975, có lần, Phùng Quán và ông Trần Dần cùng tôi uống bia ở 81 Trần Quốc Thảo (Hội Văn nghệ), bàn chuyện khôi phục hội tịch và... diễn tấu thơ các nơi.
Khi tham gia Hội đồng xét Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Quốc gia về văn học của Hội Nhà văn. Tôi bỏ phiếu tán thành ông Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm... giải Quốc gia, chủ yếu là vì muốn giải tỏa, chấm dứt một vụ việc kéo dài, nói đi nói lại, chứ chất lượng văn học thì không ai đặt ra (và về việc này ý kiến có thể rất khác nhau) mà cũng không phải là để "xin lỗi các anh ấy" như có người nói; rồi mạng nước ngoài đưa tin Chủ tịch sám hối ký lệnh giải thưởng cho các ông ấy! Riêng trường hợp Phùng Quán thì ở Hội đồng sơ khảo không đưa lên; tôi phải nhắc và đề ra quy chế: Hội đồng trong trường hợp đó, sẽ biểu quyết 2 lần: lần thứ 1 có đồng ý đưa người ấy ra xét giải không, và lần thứ 2 biểu quyết phiếu có đủ quy định không (9/11). Trường hợp ông Trần Dần còn có câu chuyện là ở Hội đồng sơ khảo (cũng đều do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội làm chủ Hội đồng), do quên ông Trần Dần, ông Thỉnh phải chạy theo mời Hội đồng họp lại. Nhưng vẫn quên phứt Phùng Quán... Chuyện ông Trần Dần – và Nhân Văn với tôi đại loại là như vậy. Chuyện này chẳng có gì đáng kể và tôi cũng không cần nói với ai để làm gì, nhưng ông Huệ Chi vu cáo thì tôi kể ra cho vui, cho rõ. Làm sao có thể nghĩ rằng trong Hội đồng tôi bỏ phiếu cho ông Trần Dần, rồi lúc in thơ ông ấy tôi lại chủ trương thu hồi. Không thể có chuyện, và không hề có chuyện tôi gọi điện, gởi thư, phát biểu... để ngăn cản phát hành. Đó là chuyện tôi không biết, không để tâm, thế thôi. Mà chuyện trục trặc trong phát hành cuốn thơ này là do thủ tục hành chính ở Nhà xuất bản, nó xảy ra trước cuộc họp của Hội đồng Lý luận – Phê bình.
Như thế là chuyện đã rõ.
***
Nhưng câu chuyện không dừng ở đây. Trong lá thư vu cáo ấy, ông Nguyễn Huệ Chi còn động đến các công trình của Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học với những lời lẽ cũng là bịa đặt, hằn học, đố kỵ hoàn toàn... Tôi thấy không cần phải tường trình và bác bỏ lại những lời đáng xấu hổ, những lời báng bổ hoàn toàn dựng đứng để làm rác tai và mất thời gian quý báu của bạn đọc. Chỉ xin nhân dịp này, trình bày một đôi điều về tư cách học thuật của ông Nguyễn Huệ Chi – điều này bổ ích hơn vì nó dính đến nghiên cứu văn học, cổ học... để cho bạn đọc hiểu thêm một con người dù sao cũng đã viết, đã làm nhiều sách, nhất là cho những bạn ở trời Tây lâu nay định chơi con bài "nhà dân chủ" Nguyễn Huệ Chi hiểu thêm về anh ấy.
2.   Chữ phiên không phải bến bờ mà là phên giậubờ rào; chữ phiệt là cửa, không phải vương quốc...
Bài tựa tập thơ Tinh sà kỷ hành (Phan Huy Ích) của Ngô Thì Nhậm (1746-1803) có câu:
"Kỳ hoặc tầm u phỏng cổ, xúc cảnh sinh tình, khứ quốc hoài hương, nhân sự đạo ý, tàn cao thặng phức, khả dĩ triêm cái hậu nhân".
"其 或 尋 幽 訪 古,觸 景 生 情, 去 國 懷 鄉, 因 事 道 意, 殘 膏 賸 馥, 可 以 沾 丐 後 人"
Nghĩa là:
"Hoặc thăm chốn thanh u, viếng nơi cổ tích, gặp cảnh mà sinh tình, hoặc xa nước cũ nhớ quê nhà, nhân việc mà tỏ ý, mật rớt hương dư, đủ để nhuần thấm cho người đời sau".
Ông Nguyễn Huệ Chi đã dịch: "Che trùm lên người đời sau" (Tạp chí Văn Học 4-1973). Nguyên lai là do các bản sao chữ Hán đều chép là niêm cái hậu nhân 粘 (黏) mà niêm là hồ dính, vật gì ướt mà có chất dính gọi là niêm -> dán vào (ta nói niêm yết粘揭 một chỉ thịcông văn... vì phải dán (niêm) công văn ấy lên ở nơi đông người để ban bố (yết) cho mọi người biết.
Xét ra chữ niêm chép ở đây là vô nghĩa. Nguyễn Huệ Chi bỏ chữ niêm không dịch, chỉ dịch chữ cái 蓋, nghĩa danh từ là cái lọng, nghĩa động từ là che trùm. Như vậy là các nhà thơ tiền bối làm thơ và thơ của họ là cái lọng, che trùm lên người đời sau. Nếu như vậy thì các nhà thơ ấy đáng yêu, đáng ca ngợi ở chỗ nào?
Trong việc dịch văn bản chữ Hán, phải có động tác nghiên cứu, hiệu đính văn bản từ chữ viết sai tìm ra gốc gác chữ đúng của nó. Các chữ dùng trên đây là chữ liền trong văn cổ Trung Hoa, trong Đỗ Phủ truyện tán của Tân Đường thư:
"Đường thi nhân chí Đỗ Phủ, hồn hàm uông mang, thiên vựng vạn trạng, kiêm cổ kim nhi hữu chi, tha nhân bất túc, Phủ nãi yếm dư, tàn cao thặng phức, triêm cái hậu nhân đa hĩ".
["...殘膏賸馥, 沾丐後人多矣"]
(Thi nhân đời Đường đến Đỗ Phủ thì bao hàm rộng lớn, muôn hình vạn trạng, gồm cả xưa và nay mà được, người khác không theo kịp. Cái dư thừa của Đỗ Phủ, cho dù mỡ rớt (tạm dịch mật rớt) hương thừa, cũng đủ để nhuần thấm cho người đời sau rất nhiều).
Như vậy, không phải là niêm cái mà là triêm cáitriêm trong lệ triêm ylệ triêm cân, mà ta hay gặp trong thơ Đường, nghĩa làthấmtriêm cái là ơn trạch để lại, là nhuần thấm, và đó mới làm cho câu văn thông nghĩa: thơ của các nhà tiền bối là cái ơn trạch nhuần thấm cho người đời sau. Dịch như ông Huệ Chi: che trùm lên người đời sau là vô nghĩa. Chữ cái là chữ cái 丐:choban choban ơn, chứ không phải cái 蓋: lọngô dù -> che.



Một trường hợp dịch khác cũng của ông Nguyễn Huệ Chi. Cũng trong bài tựa trên, Ngô Thì Nhậm có câu khen văn chương một số người như sau:
"Thiệp Trình Chu chi phiên, nhi du khuất Tống chi phiệt, nhập Doãn Đán chi thất nhi siêu Lý Đỗ chi cù".
涉 程 朱 之 藩, 而 踰 屈 宋 之 閥, 入 尹 旦 之 室 而 超 李 杜 之 衢.
Ông Nguyễn Huệ Chi dịch là lội qua bến bờ của họ Trìnhhọ Chu. Chữ phiên ai cũng biết là cái giậucái rào, ông dịch làbến bờ, chắc vì ông đã cho là lội qua (thiệp) thì phải lội qua... nước, do vậy cái bờ rào đương nhiên phải biến thành cái bến nước, trong suy nghĩ giàu trí tưởng tượng của ông Huệ Chi.
Lại nữa, chữ phiệt 閥: cửa (bên trái). Ngày xưa viết công trạng vào giấy hay tấm ván rồi nêu ra ngoài cửa, cửa bên trái gọi làphiệt, cửa bên phải gọi là duyệt, vì thế có từ phiệt duyệt hay thế phiệt... Ông Nguyễn Huệ Chi đọc chữ ấy là quốc và dịch là "vượt lên trên vương quốc của Khuất NguyênTống Ngọc". Vương quốc thì moderne đấy, nhưng sai. Chính ra nghĩa của câu là:
Băng lên hàng rào Trình Hạo, Chu Hy, vượt qua cửa ngõ Khuất Nguyên, Tống Ngọc, vào nhà Y Doãn, Chu Công, rời khỏi con đường Lý Bạch, Đỗ Phủ...
Đây là một hình tượng cổ xưa gắn liền với cái nhà: phiên (bờ rào), phiệt (cửa), thất (cái nhà) và  (con đường trước nhà); và văn dùng ẩn dụ, do đó, vượt qua bờ rào lại dùng chữ thiệp có bộ thủy, nghĩa là lội quavượt qua như thiệp giang (tên một bài thơ của Khuất Nguyên)...
Người xưa "mười năm đèn sách" mà còn có khi chữ tác đánh chữ tộ, chữ ngộ đánh chữ quá: "Tế đổi thành Cao mà chó thế/Kiện trông ra Tiệp hỡi giời ơi!" (Tú Xương). Huống hồ ông Huệ Chi đã bao năm đèn sách mà đòi phách lối? Mọi người trong lớp Hán học cũng như giới nghiên cứu đều biết rõ điều đó. Vấn đề là nên khiêm tốn một chút, lương thiện một chút, biết mình, biết người, đừng "tham, sân si", đố kỵ... Nhưng từ trình độ chữ Hán của ông Huệ Chi mà xem xét việc làm của ông ở một số công trình khác...
 
Phiên (bờ rào)
 
Phiệt (cửa)
 
Tân (bến)
 
Quốc (nước)
Từ một trình độ Hán học uyên thâm như thế, ông Nguyễn Huệ Chi (NHC) đi vào làm Thơ văn Lý – Trần. Nói cho đúng, đây là một tập hợp văn bản công phu với công sức của nhiều người, nhưng lại in chữ giản thể. Ở đây không thể nói nhiều chuyện chung quanh cuốn sách này (Chẳng hạn, bản thảo do công lao to lớn của các cụ lão nho: Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình, có cả Nam Trân làm; công lao của "ông đồ Hỉ" (tên gọi thân mật GS Đỗ Văn Hỉ, một nhà Hán Nôm học cự phách) trong việc dịch tất cả những văn bản khó nhất ấy, nhất là các văn bia cổ... Và thật sự thì cụ Nghè Đinh Văn Chấp, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Ngô Tất Tố... đã dịch phân nửa văn bản Lý – Trần rồi. Và chú thích, dịch... nhất là những vấn đề liên quan đến Phật học còn phải bàn. Nhưng đó không phải là chủ đích của bài báo này). Trong cuốn Thơ văn Lý – Trần này, lẽ ra ông NHC chỉ là người biên soạn, biên tập..., nhưng đến tập II, quyển thượng thì ông lên làm chủ biên... Và quyển hạ, tập II, đến nay sau 40 năm từ khi in tập I, vẫn chưa ra. Thật oái oăm! Giờ tôi chỉ xin nói những chuyện "hai năm rõ mười" thôi.
Năm 1969 ở Sài Gòn, Tu thư Đại học Vạn Hạnh in cuốn (Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục) do Trúc Thiên dịch. Khi biên soạnThơ văn Lý – Trần, ông NHC ghi"trong khi dịch thơ văn Trần Tung (tức Tuệ Trung Thượng sĩ) chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Thiên, do Tu thư Đại học Vạn Hạnh ấn hành, 1969" (Thơ văn Lý – Trần, t.II, quyển thượng, H., 1989, tr.225).
Nhưng "tham khảo" như thế nào? Thôi không nói đến phần "tham khảo" văn xuôi, vì phải mất công đối chứng, chỉ nói về thơ thôi. Đối chiếu bản dịch thơ của ông NHC và của Trúc Thiên thì thấy: ngoài việc lấy lại vần, lấy chữ, lấy nguyên si một số câu; ông NHC "xuất nhập" một số ý, "biên tập" lại để thành bài của mình và rồi ký luôn tên mình, xóa mất tên Trúc Thiên vốn là người đầu tiên dịch bài thơ ấy.
Trường hợp của bài Thế thái hư huyễn – Họa huyện lệnh, Thị chúng, Tặng Thuần Nhất pháp sư, Thị đồ, Chí đạo vô nan...đều là như vậy.
Bài Thế thái hư huyễn, hai câu đầu ông NHC lấy nguyên si (chỉ khác Trúc Thiên dịch chữ phó là gởi, ông để nguyên là phó):
–   Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng gởi trọn giấc Nam Kha
(Trúc Thiên dịch, Ngữ lục, Sđd, tr.123).
–   Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng phó trọn giấc Nam Kha.
(NHC dịch, Thơ văn Lý  – Trần, t.II, quyển thượng, tr.250)
Hai câu cuối:
–   Thấy chăng đàn én lầu Vương Tạ
Nay hết vàng son lạc vạn nhà.
(Ngữ lục, Sđd)
–   Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay xuống làm thân với mọi nhà.
(Thơ văn Lý – Trần, Sđd, tr.250)
Theo ý tôi, câu dịch Trúc Thiên sáng tạo hơn, hay hơn, nhất là chữ vàng son, chữ lạc thật đắt, khi nhớ câu thơ Đường về Vương Tạ của Lưu Vũ Tích: Cựu thời Vương Tạ đường tiền yếnPhi nhập tầm thường bách tính gia. Dịch thơ không phải là dịch chữ, mà dịch cái hồn chữ. Ông NHC dựa vào câu thơ dịch của Trúc Thiên, sửa vài chữ cho là sát nghĩa; còn 4 câu giữa thì cũng chỉ xoay đi đổi lại mà thôi.
Bài Họa thuyền lệnh, bản dịch của Trúc Thiên mở đầu bằng hai câu:
Đã từng nối gót Tứ Minh Cuồng
Ưng mến Y Vương với Quỉ Vương.
Thì bản NHC như sau:
Từng phen nối gót Tứ Minh Cuồng
Nào phục Y Vương với Quỉ Vương.
Dựa vào vần cũ, bài cũ, "xuất nhập" một hai chữ rồi kí tên mình.
Bài Tặng Thuần Nhất pháp sư, bản dịch của Trúc Thiên mở đầu: Pháp thân tịch diệt sắc thân còn; bài Thị chúng mở đầu:Thôi tìm núi Thiếu với khe Tào, bản NHC cũng hoàn toàn là như vậy (trong khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch vần khác: Thôi tìm Thiếu thất với Tào khê). Bài Đại đạo chí nan, Trúc Thiên dịch: Quay đầu vặn óc luống bần thần, thì ông NHC đảo lại chút đỉnh: "Bần thần, vặn óc với quay đầu", tính ra chỉ khác nhau chữ với và luống.
Thế nào là dịch lại, là tham khảo? Trong việc dịch thơ, tuy cùng nguyên tác, các bản dịch có thể khác nhau xa, tùy từng người dịch trong quá trình chuyển tải vần điệu, chất thơ, ý tại ngôn ngoại... Đằng này là lấy của người, biên tập, chữa một số chỗ chứ đâu phải dịch?
Trường hợp này cũng xảy ra giữa ông NHC và bản dịch Ngục trung nhật ký của Nam Trân (1907-1967). Nam Trân từng dạy ông NHC ở lớp Đại học Hán học (1965-1969) về thơ Đường – Tống, vừa là người lãnh đạo ông (cụ Cao Xuân Huy, Tổ trưởng, ông Nam Trân, Nguyễn Văn Hoàn, Phó tổ trưởng, ông NHC tổ viên). Lại là bậc tiền bối (Nam Trân sinh 1907, NHC 1938). Nam Trân Nguyễn Học Sĩ đậu Tú tài bản xứ tiếng Pháp thời Tây; nghiên cứu văn học phương Tây (cổ Hy-La); Hán học thì dịch thơ Đường – Tống, Kinh Thi, cổ văn... chữ tốt đến nhân sĩ Trung Quốc cũng vui lòng xin chữ và in thơ chữ Hán của ông trên tờ Thi san của Hội Nhà văn Trung Quốc. Ông lại là tác giả Huế – Đẹp và Thơ mà Hoài Thanh nhận rằng thơ ông "biệt riêng thành một lối" (Thi nhân Việt Nam). Nam Trân mất (1967), hơn chục năm sau, ông NHC đem ra "duyệt" lại bản dịch của thầy và bậc tiền bối đó. Ngoài mấy bản dịch mới hoàn toàn, còn thì, ông đã sửa chữa: 8 bài sửa 1 từ, 4 bài sửa 2 từ, 1 bài sửa 3 từ, 3 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 3 từ, 1 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 5 từ, 15 bài sửa từ 6 từ trong 3 câu trở lên. Chỉ sửa chữ, không sửa vần! Sửa có 1 chữ cũng ký tên mình vào! Thí dụ thì vô khối.
Bài Dạ túc Long Tuyền, 3 câu trên gần như lấy lại nguyên văn, đến câu 4, Nam Trân dịch:
Mừng sáng nghe oanh hót xóm gần
(Cách lân hân thính hiểu oanh đề: Mừng nghe chim oanh bên láng giếng báo sáng) (Nhật kí trong tù, 1960, tr.66).
Ông NHC bèn chữa lại:
Oanh sớm, mừng nghe hót sớm gần
rồi ký tên mình ở bên cạnh. Đúng là "lợn lành chữa thành lợn què"! Câu thơ dịch của Nam Trân đã là tối ưu so với câu thơ nguyên tác, xuôi thuận, đẹp về tiếng Việt. Còn oanh sớm là oanh gì? Có oanh chiều, oanh tối không? Hiểu là sáng sớm, ở đây nó là trạng ngữ của oanh, con chim oanh hót vào buổi sáng sớm, tức là nó báo sáng, chứ oanh sớm thì tiếng Việt chẳng ai nói thế, viết thế cả.
Bài Chúc than (Hàng cháo), ông Nam Trân: quán rượu, ông NHC chữa tiệm rượu, ông Nam Trân: chỉ có cháo hoa..., ông NHC:nào món cháo hoa... thế là đứng tên! Bài thơ tả một quán nghèo, quán cóc trên đường, quán chỉ bán cháo hoa, muối trắng. Vậy cách dịch chỉ có thật đúng cái thần của câu thơ, còn nào món là có ý tán dương món ăn ở quán ư!?
Tệ nhất là có bản chỉ chữa 1 chữ, các vị cũng đề tên mình vào bản dịch cũ. Mà chữa thế nào: Nam Trân: sách xưa – sách mới (cựu quyển – tân thư) nay sửa quyển xưa – sách mới (cho đúng nguyên văn, dịch theo chữ!), rồi hân hạnh đứng tên! (Xem bài "Nạn hữu đích chỉ bị" – Chiếc khăn giấy của người bạn tù. NKTT, NXB Chính trị Quốc gia, tr.139).
Hỡi ôi! Đúng là: "Thế sự người người o ổi tiết bảy. Nhân tình ai ủ cúc mồng mười" (Nguyễn Trãi). Giá như ông Nam Trân còn sống chả biết ông nghĩ sao! Những học trò mà trước khi chết, ông than tiếc: "Đào lý phương viên thắng hủy đaTiểu tâm bồi ủng nhị niên quaNhư kim vô lực truyền xuân sắcTrường hướng thu phong thán nhất ta" (Tạm dịch: Cỏ lạ đào thơm mơn mởn tươiĐem lòng vun xới mấy năm trờiĐến nay không sức truyền xuân sắcNhìn gió thu sang, một thở dài). Những học trò ấy đã vượt qua đầu ông, bất chấp tấm lòng và con chữ mà ông "bồi ủng"!
Kể ra hơi tàn nhẫn và xâm phạm quyền tác giả. Mà không chỉ có Nam Trân. Đến cụ Nguyễn Sĩ Lâm, Viện trưởng Viện Đông Y, một nhà Hán học cự phách, cẩn thận, chắc chắn, sâu rộng, một tâm hồn thơ..., thầy chữ Hán chúng tôi ở lớp Hán – Nôm Sau Đại học (1972-1975) cũng bị NHC đoạt chữ! Cả bài của cụ Nguyễn, 12 câu dịch, ông NHC thực ra chỉ chữa có 2 chữ: Vô ngầnthành dữ dằn. Cụ Nguyễn dịch: "Giả bộ ác vô ngần" (Nguyên văn: Giả trang ác ngân ngân, nghĩa là: Lại giả bộ ác hầm hầm– Nhật ký trong tù, 1991, tr.26). Ông NHC chữa thành: Vờ làm bộ dữ dằn, chắc gì đã diễn đạt đúng nguyên tác: ngân ngâný hung áctàn nhẫn (Nhật ký trong tù, tr.27). Rõ ràng ác hầm hầm và dữ dằn mức độ khác nhau, chất lượng khác nhau. Nhưng thôi, chữa là chuyện của ông, nhưng ông lại ký tên mà là ký trước cụ Nguyễn, như là người dịch chính vào bài của cụ Nguyễn là cớ làm sao?
Nói cho đúng, NHC không chỉ chữa và ký tên chung. Ông cũng có dịch một số bài mới. Thà là như thế! Hay, dở cũng là bản dịch của mình. Văn chương "tự kỷ văn chương, tha nhân thê thiếp" (văn mình, vợ người). Nhân nói đến chuyện ứng xử với người thầy cũ, tưởng cũng nên nhắc qua chuyện ông NHC và cụ Cao Xuân Huy. Ông lôi trong đống giấy tờ cũ ở nhà con rể cụ Cao Xuân Huy, soạn ra cuốn "Chủ toàn và chủ biệt – hai ngã rẽ của triết học Đông Tây", đem in bên Tây, rồi đem về đổi tên thành "Tư tưởng phương Đông – gợi những điểm nhìn tham chiếu" (1995), rồi dựa vào uy tín cụ Cao Xuân Huy, cuốn sách đem về Giải thưởng Hồ Chí Minh cho Cụ ra, động cơ lại khác. NHC lợi dụng các bài mà cụ Huy chủ yếu viết từ 1956–1957. Cụ Cao Xuân Huy là người thấm nhuần đạo Lão – Trang, biết rằng: "Danh khả danh phi thường danh" (Cái danh có thể gọi được là danh là cái danh không hằng thường – Lão Tử). Cụ đâu có cần "danh", cần giải thưởng! Cái hay cái lớn là không màng giải, không màng danh, lấy điều không tham làm giải: "Bất tham vi vinh". Chứ đi nhận giảinhận tiềncòn đâu Lão – Trang, còn đâu cụ Huy! Sau khi sách ra, học giới tranh biện, phê phán làm phiền cho cụ khôn xiết, trong đó có ý kiến ông Trần Thanh Đạm, Đông La, Trần Văn Đoàn..., mà NHC đuối lý, không bảo vệ được. Chẳng hạn, xem Đông La: Những điều cần bàn của một công trình triết học – Đọc "Tư tưởng phương Đông – gợi những điểm nhìn tham chiếu", sách Biên độ của trí tưởng tượng (NXB Văn học, 2001, tr.191-205). Cũng xin đem bài Đông La về NHC trên mạng... Ông Trần Văn Đoàn trong "Hiện tượng văn học tại Việt Nam" (2004) cho biết "NHC viết là vào năm 1925, cụ Huy ra trường, và trong 2 năm 1925–1927, ông đã đọc rất nhiều sách... của Pazyluski, Maspéro, Coulet, Giaran, Lương Khải Siêu, Hồ Thích, Khang Dung Hình... Thử hỏi, cụ Huy vào thời gian 1925–1927 làm sao đọc được những sách chưa xuất bản hay xuất bản cả chục năm sau?!" (tr.23).
Cũng tương tự, chuyện đối với thầy Thích Nhất Hạnh, không phải "thầy học", mà là "thầy chùa – thiền sư". Năm 1974, trong Việt Nam Phật giáo sử luận, (T.I, NXB Lá Bối, Sài Gòn), Nguyễn Lang (tức thiền sư Thích Nhất Hạnh), trong chương 9: Tuệ Trung Thượng sĩ (tr.269-298); đã phát hiện ra Tuệ Trung chính là Trần Tung, con Trần Liễu, anh Trần Hưng Đạo (chứ không phải là Trần Quốc Tảng, con trai Trần Hưng Đạo như Bùi Huy Bích viết trong Hoàng Việt thi tuyển). Thiền sư viết:
"Sách Hoàng Việt văn tuyển nói Tuệ Trung Thượng Sĩ là Hùng Ninh Vương Trần Quốc Tảng, con lớn của Trần Hưng Đạo. Sự thực thì tuy Tuệ Trung Thượng sĩ có tước hiệu là Hưng Ninh Vương, nhưng ông không phải tên là Trần Quốc Tảng cũng không phải là con của Trần Hưng Đạo. Ông là anh cả của Trần Hưng Đạo, và tên ông là Trần Quốc Tung. Trần Nhân Tông, người khảo đính sách Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, trong bài Thượng sĩ Hành Trạng in ở cuối sách có nói rõ "Tuệ Trung Thượng sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương và là anh của Hoàng Thái Hậu Nguyên Khánh Thiên Cảm. Khi Đại Vương mất, hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng sĩ tước Hưng Ninh Vương".
Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là tước hiệu vua Trần Thái Tông ban cho Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất. Đó là vào năm 1251. Cũng vào năm ấy Tuệ Trung Thượng Sĩ được 21 tuổi, và được phong tước Hưng Ninh Vương. Hoàng Thái Hậu Nguyên Khánh Thiên cảm là con thứ 5 của Yên Sinh Vương Trần Liễu, tên là Thiều, là vợ của vua Trần Thánh Tông. Trần Hưng Đạo có một người con tên là Trần Quốc Tảng, nhưng tước hiệu là Hưng Nhượng Vương chứ không phải là Hưng Ninh Vương".
Trong phần chú thích, Nguyễn Lang Thích Nhất Hạnh ghi rõ: con cả của An Sinh Vương tên là Tung. Sách Đại Việt sử ký toàn thư trong phần nói về vua Trần Minh Tông, có ghi lời bàn của Ngô Sĩ Liên như sau:
"Vua vốn là người hậu với thân thuộc trong họ, đối với người vai trên mà quý hiển lại càng tôn kính lắm. Phàm kẻ thần hạ người nào cũng có tên trùng với những người ấy đều đổi cho tên khác. Người nào tên là Độ đổi thành tên Sư Mạnh vì Độ trùng với tên của Thường Phụ (Trần Thủ Độ), tên là Tung thì đổi làm Thúc Cao, vì tên Tung trùng với tên của Hưng Ninh Vương con trưởng của An Sinh Vương".
Có những bản in lầm An Sinh Vương thành An Ninh Vương. Ta chưa từng nghe ai có tước hiệu An Ninh Vương bao giờ. Hưng Ninh Vương là con của An Sinh Vương Trần Liễu. Chữ Sinh trong An Sinh Vương hẳn là đã bị khắc lầm thành chữ Ninh chỉ vì trước đó đã có chữ Ninh trong Hưng Ninh Vương (chú thích là Nguyễn Lang).
Như thế là đã rõ, là rất chi tiết và thuyết phục. Ông NHC trong Thơ văn Lý – Trần (t.I, H., 1977, tr.113-115) cũng "tìm hiểu đích xác Tuệ Trung Thượng sĩ là ai" (tr.114), đã viết lại những phát hiện của thiền sư Thích Nhất Hạnh mà xem như đó là phát hiện của chính mình.
Đến bài viết "Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ thiền thời Lý – Trần", Tạp chí Văn Học (số 4 – 1977), ông NHC mới viết ở phần chú thích: "Cũng xin nói thêm là trong quá trình biên soạn bộ sách Thơ văn Lý – Trần, chúng tôi đã phát hiện ra vấn đề này tương đối sớm, và đã có dịp trình bày sơ lược trong phần khảo luận đầu sách. Gần đây, có đồng chí mách cho biết: trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận (Lá Bối; Sài Gòn; 1974), Nguyễn Lang cũng có ý kiến giống chúng tôi về tác giả đích thực của Thượng sĩ ngữ lục. Tuy nhiên tìm đọc kỹ những điều ông Nguyễn Lang đã viết, chúng tôi vẫn thấy cần có một bài báo nói kỹ hơn về những tìm tòi của mình để bạn đọc tham khảo. Vì không những tài liệu và lập luận của chúng tôi có khác mà cách đánh giá của chúng tôi đối với thơ văn Trần Tung cũng không giống Nguyễn Lang. Vả chăng, cho đến nay, mặc dầu đã có ý kiến sơ bộ của ông Nguyễn Lang, dư luận chung vẫn coi Trần Quốc Tảng là tác giả của Thượng sĩ ngữ lục".
Thực là khó tin! Sau khi Nam Bắc đã thống nhất, mà một bộ sách nghiên cứu phổ biến của một nhân vật như vậy và viết bằng tiếng Việt chứ có phải tiếng Tây, tiếng U gì đâu, lại không đến một viện nghiên cứu chuyên ngành, lại đang làm thơ văn Phật giáo! (Còn nhớ, hồi ấy cán bộ Viện trong đó có NHC nườm nượp vào Nam, làm gì một cuốn tài liệu quan thiết đến như vậy mà NHC lại không có, không biết, đến nỗi "gần đây, có đồng chí mách cho biết, trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận (Lá Bối, Sài Gòn, 1974) Nguyễn Lang cũng có ý kiến giống chúng tôi về tác giả đích thực của Thượng sĩ ngữ lục"Tư liệu là không khí của nhà nghiên cứu, sao NHC phải đợi có người mách cho một chuyện tày đình như vậy! Dù sao, trong nghiên cứu, có một "luật": ai phát hiện, phát minh ra cái gì, căn cứ vào năm họ đăng ký bằng tác phẩm được công bố. Thí dụ trong trường hợp này:Phát hiện Tuệ Trung là Trần Tung đích xác thuộc về Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh), công bố tại Sài Gòn từ năm 1974;trước NHC (1977đến babốn năm trời. Lý đơn giản là như vậy. Nhưng thôi, chắc chắn là thiền sư Thích Nhất Hạnh chẳng để ý tranh giành tác quyền gì về chuyện đó, còn chúng ta, thì ai tin NHC cứ tin, cũng không mất gì! Cũng không có gì quan trọng lắm đâu một việc "phát hiện" như thế. Trần Nhân Tông chẳng đã nói rõ ràng trong "Thượng sĩ Hành Trạng": Tuệ Trung là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là tước hiệu của vua Trần Thái Tông ban cho anh ruột là Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất...". Thế thì "phát hiện này là của Trần Nhân Tông (1258-1308) chứ! Đã vậy, cái cách NHC nói về Nguyễn Lang lại thiếu hẳn sự khiêm tốn của một người đi sau. Ông cho rằng "cách đánh giá của chúng tôi đối với thơ văn Trần Tung cũng không giống Nguyễn Lang" (Bđd, tr.116). Không giống như thế nào? Ông NHC bảo là "Thơ thiền của Trần Tung sẽ chỉ có một ý nghĩa nhất định với chúng ta chừng nào nó vẫn còn là thơ, là thơ của thế tục, hoặc là thơ có dính dáng ít nhiều đến thế tụcchứ chưa hoàn toàn là Thiền" (tr.127)...
Ơ hay! Thơ Thiền là Thơ Thiền, còn có dính đến thế tục hay không là chuyện khác. Thế thơ Thiền của Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam (những bài thơ Thiền chân chính, thuần khiết nhất của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông chẳng hạn...) là không còn ý nghĩa ư? Thực ra thì trong bài viết, để cố chứng minh mình độc lập, có được phát hiện này, ông NHC đã tự bộc lộ nhiều cái chưa ngộThiền, chưa thông Phật học, chưa quán Tuệ Trung... Ông cho rằng: Tuệ Trung "tồn tại một nhà duy lý, ẩn náu bên trong một con người Thiền", Tuệ Trung "yêu cầu một sự kiểm chứng bằng lý trí"... "một cái nhìn tương đối sáng và tỉnh, một ý thức thường trực làm ‘bản ngã’, một sự lựa chọn dứt khoát chỗ đứng ở cõi trần" (Bđd, Tạp chí Văn Học, 1997), "Trần Tung bẻ gãy và lật ngược lại nhiều mệnh đề Phật giáo xưa nay vốn lưu truyền", "chủ nghĩa tương đối", "tâm lý hư vô", "coi tất cả là phi lý, đánh đồng cái chân và cái giả" (Từ điển văn học, H., NXB Thế giới, 2004, tr.1812).
Những điều đánh giá này, có lẽ vào lúc NHC đang "xin vào Đảng" như ông Đông La nói, nên nó chứng tỏ một lập trường mác-xít giản đơn, thô thiển, áp đặt và đại ngôn! Thực ra Trần Tung là một nhà Thiền học (Thiền chứ không phải là Phật giáo nói chung)muốn siêu việt lên trên tất cả những phạm trù nhị nguyên. Xem cách phân tích của thiền sư Thích Nhất Hạnh, một thiền sư, một học giả, rất dung dị mà hiểu sâu và đúng về Tuệ Trung. Đó là điều chẳng có gì đáng ngờ nhưng đây không phải chỗ để chúng tôi đi sâu phân tích. Cần nói là sau này, ông NHC lại tất tả đi in lại bộ Việt Nam Phật giáo sử luận. Với con người như NHC, đây là một động thái không đơn giản!



Kết luận lại, tôi chỉ nói một điều đơn giản thôi: Ông NHC tự cho rằng việc ông "tìm ra thơ văn của nhà sư uyên bác, đồng thời là võ tướng có nhiều công lao dẹp giặc này là một cống hiến vô cùng quý giá" (Thơ văn Lý – Trần, t.I, tr. 113). Tôi hoàn toàn đồng ý, với một chú thích nhỏ: Từ năm 1969 ở Sài Gòn, Trúc Thiên tìm ra, đã dịch và công bố Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục (Đại học Vạn Hạnh xuất bản 1969, in lại 1974) tức là phát hiện và dịch trước ông NHC khoảng mười năm, còn về văn bản chữ Hán của tác phẩm này thì ít ra từ đời Chính Hòa thứ 4 (1683) đến đời Thành Thái (1903), Phật giáo Việt Nam vẫn in lại.
Cho nên cái "cống hiến vô cùng quý giá" đó mà ông NHC nhận về mình cũng rất nên phải xem lại.
Bây giờ nói đến chuyện luận án Tiến sĩ "Giai nhân kỳ ngộ diễn ca trong văn học Duy Tân yêu nước đầu thế kỷ XX" của Trần Hải Yến (Viện Văn học – 2002) và bài "Giai nhân kỳ ngộ diễn ca, một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về truyện thơ lục bát" của ông NHC in trên Tạp chí Thời Đại Mới (Tạp chí nghiên cứu và thảo luận – một tạp chí mạng ở Hoa Kỳ, số 9, 11/2006). Bà Trần Hải Yến, như trong thư mục tham khảo của luận án cho thấy, biết 4 ngoại ngữ: Hoa, Nhật, Anh, Pháp. Đây là một luận án do PGS-TS Phạm Tú Châu hướng dẫn và đã bảo vệ thành công xuất sắc. Đọc luận án thì thấy không có cái gì dính líu đến Giai nhân... mà không được đề cập thấu đáo, sâu sắc, kĩ lưỡng, kể cả vấn đề thể loại "Truyện thơ lục bát". Thế thì bà Trần Hải Yến còn lép cái nỗi gì để ông NHC rút ruột cái luận án ấy mà viết bài báo trên, rồi sau khi bị phản ứng, phải gỡ xuống và từ đó đến nay không thấy công bố ở trong nước, ngoài nước. Bà Trần Hải Yến cũng như bất cứ một nghiên cứu sinh nào khác phải đề ở đầu luận án câu này: "Xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôiCác nhận định và kết luận của luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác" và ký tên. Ông NHC có dám viết câu này khi viết bài báo nói trên không? Thế là cái bài báo ấy nó là "của em" chứ không phải "của anh".
Chữ Hán có thành ngữ: "Đoạt thai, hoán cốt", nói về việc "rút ruột" và ém nhẹm, phi tang. Vì thế có hai câu tóm tắt chương này:
Tiểu xảo, "đoạt thai" Trần Hải Yến
Đại ngôn, "hoán cốt" Nguyễn Thiền Sư
***
Bây giờ, xin qua chuyện chữ Tây của ông NHC để "giải lao" – thư giãn. Tôi không phải là chuyên gia tiếng Pháp nên lẽ ra không nên nói chuyện này. Theo lời một bà bạn ở Viện Văn học ngày xưa, thì ông NHC làm "văn hóa Phần Lan" để tỏ ra mình giỏi tiếng Pháp (Đường vào văn hóa Phần Lan – 1996) và ông cũng hay xài tiếng Tây trong các bài viết, hoặc thư từ.
Nhưng trong tập sách biên soạn Truyện ngắn Nam Phong (Nxb. KHXH, H., 1989), trang 131, NHC chú "tàu xúp-lê" là "tiếng Pháp: Souffler: thổi còi". Chú giải như vậy là sai. Siffler mới là thổi còi, còn Souffler chỉ có nghĩa là thổi, như gió thổi (le vent souffle), thổi tắt ngọn nến (souffler la bougie). Souffler còn nhiều nghĩa nữa. Vậy hai chữ khác nhau chỉ chữ i và u. Chúng tôi xin đưa hai lệ chứng về chữ xíp-lê như sau:
"Nghe xíp-lê một chút rồi ngó thấy xe lửa rần rần chạy tới. Bé Hậu mừng rỡ nên đứng vỗ tay om sòm" (Đoạn tình – Hồ Biểu Chánh).
"Tàu xíp-lê, kéo neo, xịch xịch chạy. Hai giờ đêm đến bến Hà Thành. Đèn điện sáng trưng, cô thông nom cũng choáng mắt" (Con người Sở Khanh – Phạm Duy Tốn). Ai muốn hiểu sao thì hiểu cái tiếng Tây của ông NHC!
Ông NHC hầu như không làm công trình riêng. Ông chuyên đi "chủ biên" lấy bài nhiều người khác in, viết Lời giới thiệu rồi đề mình chủ biên (trường hợp cuốn sách Hoàng Ngọc Phách – đường đời và đường văn (chuyên khảo, sưu tầm, tuyển chọn, 1996) sao lại đề là tác phẩm chínhin riêng của mình? (xem "Nhà văn hiện đại", H., 2007, tr.150). Cuốn này chủ yếu là tác phẩm của cụ Hoàng Ngọc Phách, vậy phải đề tác giả là Hoàng Ngọc Phách, NHC sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu... mới phải.
Kể ra cũng lợi. Ngay cả cuốn "Từ điển văn học" khởi đầu do GS Đỗ Đức Hiểu chủ biên; GS Đỗ mất, ông đem ra thêm bớt, in lại (dịp khác ta sẽ bàn), các ông Đặng Tiến, Nguyễn Hữu Sơn và nhiều người khác đã có bài nhận xét sơ bộ, nhưng chưa thấy ai nói rõ điều này: ông đem cả nhà ông vào Từ điển, bất chấp họ có là nhân vật văn học hay không (có thể họ là sử, giáo dục, đạo đức học..., chứ quá ít dính đến văn), và ông thích ai thì đưa vào, không thích ai thì gạt (chẳng hạn, tại sao ông lại gạt GS Hoàng Trinh vốn là người lãnh đạo của Viện mà lại đưa nhiều người có ít công trình hơn GS Trinh – vì "tư thù, tư oán" gì chăng? Ưng Quả, Bửu Kế, Nguyễn Khoa Vy... ở Huế sao không được đưa vào từ điển. Tại sao từ điển lại dừng ở những năm 60 của thế kỷ trước và thiếu không biết bao nhiêu người? Ông đã bộc lộ chủ tâm là ông muốn đưa vào cả những nhân vật văn học không hề đáng đưa một tí nào, nhưng không lọt. Ông "dương" người này, "ức" người kia. Làm từ điển phải có chuẩn, phải khoa học, vô tư, khách quan. Cuốn này còn cần phải thảo luận nhiều.
Lời Tạm Kết
Ông NHC đã dồn tôi vào thế phải lên tiếng, làm tôi mất rất nhiều thời gian và công sức. Nếu tôi phải "thất lễ" với ông, thì ông nên trách mình và nên thông cảm với người. Thật lòng tôi rất chán phải nói những chuyện u ám này. Đời thiếu gì trời xanh, hoa tươi, người tốt... mà phải chui vào cái cõi u minh và vạch cái tối tăm của người này, người kia, nói tắt là phải đi "dọn rác". Không phải tôi muốn "hạ" ông NHC, để mình "cao" lên. Không, tôi vẫn chỉ là tôi thôi, "người là thế ấy, ta là thế thôi!" Ngô khởi hiếu biện taiNgô bất đắc dĩ dã (Mạnh Tử). Tôi cố ý tránh tranh biện với ông NHC từ mấy chục năm rồi. Một là, rất không rảnh. Hai là, nhớ lời dạy của cụ Hoài Thanh khi ở Viện: "Việc lớn xem là nhỏ, việc nhỏ coi như không có", và lời của anh Nguyễn Đình Thi, thủ trưởng một thời của tôi: "Đối xử tốt ngay cả với người xử xấu với mình". Trong đời, phải "lòng chợt từ bi bất ngờ", phải có "một tấm lòng" như lời ca Trịnh Công Sơn. Ông NHC đối xử với tôi ra sao, hẳn ông là người biết rõ nhất. Nhiều bạn bè Hà Nội nói lại với tôi và còn "phê" tôi: "Tại sao ông NHC nói xấu ông như thế, còn ông lại đi nói tốt cho ông ấy?". Tôi chỉ cười: "NHC là người làm việc, làm được nhiều việc. Người như thế hiện không có nhiều. Còn chuyện cá nhân thì bỏ qua đi, cho nó nhẹ người". Tôi và nhiều bạn vẫn đánh giá tốt ông NHC ở những bài, những chỗ mà ông chính là ông, không cần "bành trướng", nâng lên: "Quân Tào có 30 vạn nói thặng lên thành 100 vạn". Ông không cần phải lên gân, ráng sức quá sức mình, nguy hiểm cho sức khỏe.
Nhưng nay thì ông đã đi quá xa về chính trị và học thuật, và ông chủ động tấn công, nên buộc lòng tôi phải lên tiếng tự vệ. Tôi xin tạm kết đôi điều:
Về mặt chính trị: ông NHC muốn giương cờ làm "nhà dân chủ" ở Việt Nam, đó là sự chọn lựa của ông. Ông NHC cũng đã từng có kinh nghiệm ở hoạt động này nhiều năm: Kinh nghiệm Nội Bài, kinh nghiệm viết bài trên các mạng nước ngoài; gần đây lại dẫn đầu một đoàn quỳ lạy trước quan tài "nhà dân chủ" Hoàng Minh Chính, cũng như dẫn đầu đưa đơn về vụ Thơ Trần Dần... Đó là chuyện của ông. Nhưng ông không nên vu cáo, chửi bới những người khác – khác chính kiến, khác cách làm, khác lộ trình... "Dân chủ" mà như thế sao được? Dân chủ trước hết phải tôn trọng những người khác ý mình, chứ đâu lại thô lỗ thế. Theo tôi, ông không phải là người "dân chủ". Ông đã từng tham vọng học thuật một cách "bá đạo", nay nhảy sang làm chính trị lúc cuối đời. Tôi mong ông hãy suy nghĩ lại cho kỹ, đừng quá nóng giận mà mất khôn. Làm chính trị chẳng dễ hơn làm nghiên cứu đâu, ông NHC ơi! Còn về văn học thì chúng ta có lạ gì nhau. Dẫu sao xưa kia cùng từng là người cùng một tổ chuyên môn của một Viện, người cùng lớp Đại học Hán học, bây giờ tuy cư trú hai miền nhưng có lúc còn gặp mặt nhau, trong một Hội đồng chấm luận án tiến sĩ hay cuộc họp này, họp kia, vậy vui vẻ là hơn anh NHC ạ. Đời ngắn lắm, anh đã "xưa nay hiếm" rồi đấy nhỉ, vậy thì "còn gặp nhau thì hãy cứ dzui" như một câu thơ dễ thương của bà Tôn Nữ Hỷ Khương mà anh chị em hay nhắc, việc gì mà thù hằn nhau, sân si nhau sâu sắc thế! Đời rộng dài, biển học bao la, sức ta có hạn, lo tập trung mà làm việc, may ra còn được chút đỉnh lợi ích cho đời:
Ta chợt biết rằng vì sao ta sống
Vì đất nước cần một trái tim
(Trịnh Công Sơn)
Miễn trái tim ấy là một trái tim nhân hậu, chứ không phải "nhất thế tử tâm hoài đại độc" như Nguyễn Du nói.
***
Có lão học giả nghe chuyện ông vu cáo tôi, có thơ vịnh rằng:
Đâu ngờ xử thế chẳng ra chi!
Vu cáo người ta phỏng ích gì?
"Dân chủ" lập trường còn khuất tất,
Văn chương, chữ nghĩa đáng hoài nghi.
"Thiệp phiên" đâu phải là "qua bến"
"Súp – lế" tuy vầy vẫn viết "i"
Chữ nghĩa Tây Tàu đều rắc rối,
Già đời đừng để bị khinh khi
Tôi xin phụng họa, tấp tểnh "nối điêu" bài "xướng" trên như sau:
Hóng hớt, thâm thù có ích chi!
Nói năng hỗn ẩu có ra gì?
Giáo sư nên biết đường ăn nói,
Học thuật phải cần tránh khả nghi
"Phên dậu" ngàn năm chưa hóa bến,
"Síp – lê" vạn thủa vẫn nguyên i.
Nhớ lời Phật dạy, sân si dứt
"Bất kị bất cầu"(1), phúc có khi.

---------
(1) Kinh Thi: "Bất kị bất cầu, hà dụng bất tang" (Không ghen ghét cũng không cầu cạnh thì việc gì mà chẳng tốt lành).


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.