Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

05/09/2013

Lí giải của Ngô Tự Lập (2010): Khi viết sách "Những mẩu chuyện về....", cụ Trần Dân Tiên nghĩ đến truyền đơn lá của Nguyễn Trãi

Lời dẫn: Nguyên văn của bác Ngô Tự Lập như sau, vì thú vị, nên tôi dẫn cả đoạn dài.

 "Tôi là một trong không nhiều người hâm mộ Hồ Chí Minh nhưng lại tin rằng Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Hơn thế nữa, chính vì hâm mộ Hồ Chí Minh mà tôi tin như vậy....(...)...Tôi đoán, thời gian cấp bách là một yếu tố khiến Hồ Chủ Tịch phải quyết định như vậy. Hãy nhớ rằng cuốn sách được xuất bản năm 1948. Đó là thời điểm vô cùng khó khăn đối với Hồ Chí Minh. Cuộc cách mạng của ông đang đứng trước những nguy cơ to lớn. Đội quân phần lớn gồm những chàng trai chân đất của ông đang phải đối mặt đội quân viễn chinh thiện chiến của cường quốc Pháp, được hỗ trợ bởi cường quốc số một thế giới là Hoa Kỳ. Xin nhớ rằng cho đến lúc đó chính phủ của Hồ Chí Minh vẫn chưa được Liên Xô công nhận, còn cách mạng Trung Quốc thì đến 1949 mới thành công. Tình thế của cuộc kháng chiến chống Pháp lúc đó rất giống tình thế của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn khi Nguyễn Trãi mới dâng “Bình Ngô sách”. Và cũng như Nguyễn Trãi và Lê Lợi, Hồ Chí Minh buộc phải thu phục nhân tâm. Để thu phục nhân tâm, phải có một hình tượng trung tâm lý tưởng có thể thu phục nhân tâm. Ai có thể làm việc đó trong điều kiện nước sôi lửa bỏng như vậy? Tôi nghĩ là không có ai cả ngoài Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã phải tự viết lấy cuốn sách. Tôi tin rằng khi đó Hồ Chí Minh có nghĩ đến những tờ truyền đơn lá của Nguyễn Trãi."

Ở dưới là nguyên văn.

---

 

 Ngô Tự Lập 
Khoa Quốc tế - ĐHQGHN


Có một sự tương đồng về bản chất giữa Vĩ nhân với cuốn Sách vĩ đại. Cuốn sách vĩ đại là một cuốn sách hay, nhưng một cuốn sách hay, thậm chí rất hay, chưa chắc đã là một cuốn sách vĩ đại. Cũng vậy, vĩ nhân phải là một người xuất sắc, nhưng một người xuất sắc, thậm chí rất xuất sắc, chưa chắc đã phải là vĩ nhân.
Trong văn học Việt Nam, tác phẩm xứng đáng nhất để được gọi là vĩ đại là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Có thể nói, “Truyện Kiều” là kinh thánh văn chương của dân tộc Việt Nam. Phạm Quỳnh nói rất đúng, rằng: "‘Truyện Kiều’ còn thì tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn thì nước Việt còn". “Truyện Kiều” vĩ đại vì sao?
Truyện Kiều” vĩ đại không phải vì nó là tác phẩm đại chúng, mặc dù có lẽ không một người Việt nào không biết về nó. Nhưng theo những gì tôi thấy, và chắc các bạn cũng đồng ý với tôi, có không nhiều người đọc hết “Truyện Kiều”, lại càng ít người thực sự có nhu cầu đọc “Truyện Kiều” để thưởng thức. Trên thực tế, lời khẳng định “Truyện Kiều là tác phẩm được mọi người Việt Nam yêu thích” chỉ sáo ngữ. Ngày nay, thanh niên biết đến “Truyện Kiều” chủ yếu vì nó được giảng dạy trong trường phổ thông, còn trong quá khứ có lẽ những người nông dân mù chữ yêu thơ ca học thuộc lòng từng đoạn dài chủ yếu vì âm điệu du dương hơn là thực sự hiểu nội dung của nó. “Truyện Kiều”, với vô số điển tích, là một tác phẩm khó hiểu ngay cả với các những người có học. Tuy nhiên, bằng nhiều con đường, nó trở thành một cái gì đó giống như đồ thờ. Cha tôi, khi còn sống, trong một chuyến về phép thăm nhà, nói với con trai là tôi, khi đó mới mười một tuổi, rằng “Ai chưa thuộc 500 câu Kiều thì chưa phải là người Việt Nam”. Để chứng tỏ với bố rằng mình là người Việt Nam hơn thế, tôi đã học thuộc lòng cả cuốn sách, mặt dù khi đó, xin thú thực, cũng chẳng hiểu nó hay ở chỗ nào.
 “Truyện Kiều” vĩ đại cũng không chỉ vì nó là một kiệt tác, mặc dù không có gì phải nghi ngờ về giá trị văn học của tác phẩm này. Tôi nói vậy không phải vì đòi hỏi tất cả các câu trong “Truyện Kiều” đều phải là tuyệt mỹ. Đó là điều không tưởng. Một tác phẩm thơ dài, nói như Edgar Allan Poe, thực chất là một tổ hợp những bài thơ ngắn. Ở khoảng giữa những bài thơ ngắn ấy là rất nhiều những câu nối, câu dẫn, câu độn. Và chính những câu dẫn, câu nối, câu độn ấy góp phần làm những “bài thơ ngắn” kia thêm lung linh. Tôi không đòi hỏi tất cả các câu trong “Truyện Kiều” đều phải là tuyệt mỹ. Ý tôi muốn nói là trong văn chương Việt Nam cũng có những kiệt tác khác, như “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm và Đặng Trần Côn. Trong "Chinh phụ ngâm", những câu như
Áo chàng đỏ tựa dáng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”

                           hay

Trống trường thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây”

là những câu thơ tuyệt mỹ không hề thua kém bất kỳ câu thơ nào trong “Truyện Kiều”. Thêm nữa, nếu “Truyện Kiều” vay mượn cốt truyện từ tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả Trung Quốc, thì “Chinh phụ ngâm” là tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Nhưng kiệt tác “Chinh phụ ngâm” đã không được chọn.
 “Truyện Kiều” cũng không phải là một kiệt tác đầu tiên của văn học Việt Nam bằng tiếng Việt. Kiệt tác đầu tiên của văn học Việt Nam bằng tiếng Việt là “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, cha đẻ của văn học Việt Nam bằng tiếng Việt, người mà không chỉ tài năng, vinh quang mà cả bi kịch cũng vô song. “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi cho đến nay vẫn còn mới mẻ, vẫn còn khiến ta thán phục. Có thể nói, không có “Quốc âm thi tập” thì không có “Truyện Kiều”. Thế nhưng “Truyện Kiều” của Nguyễn Du mới là tác phẩm vĩ đại nhất của văn học Việt Nam. Vì sao? Vì nó được lịch sử và cộng đồng lựa chọn để trở thành biểu tượng văn hóa. Người ta không chỉ đọc nó, người ta còn dùng nó để học, để bói toán. Tóm lại, từ một sản phẩm xuất sắc của cá nhân Nguyễn Du, “Truyện Kiều” trở thành sản phẩm lịch sử của một cộng đồng.
Cũng vậy, vĩ nhân là sản phẩm lịch sử của một cộng đồng. Cá nhân xuất sắc là người có một sự nghiệp xuất sắc, nhưng cá nhân xuất sắc ấy chỉ trở thành vĩ nhân khi được cộng đồng, trong những bối cảnh lịch sử nhất định, lựa chọn để trở thành huyền thoại. George Washington là một ví dụ. Ngày nay Washington được hầu hết dân chúng Hoa Kỳ sùng kính. Nhưng không phải bao giờ cũng thế. Nghiên cứu lịch sử nước Mỹ, ta thấy rằng vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ là một người xuất sắc, nhưng không phải là xuất sắc nhất trong số các người Cha Lập Quốc (Founding Fathers) của nước Mỹ. Một số tài liệu cho thấy tuy giữ cương vị tư lệnh của quân đội, ông là một người khá nhợt nhạt về tính cách cũng như tài năng quân sự. Nhưng có lẽ trong lúc những nhân vật xuất sắc nhất không thống nhất được với nhau - và do đó không giành được ủng hộ của số đông - Washington đã trở thành vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Vinh dự ấy không thuộc về Thomas Paine, người đã xây dựng nền tảng lý luận cho cuộc Cách mạng Mỹ, hay Thomas Jefferson, người viết ra bản “Tuyên ngôn độc lập” nổi tiếng. Khi còn là Tổng thống, Washington bị dân chúng chỉ trích khá nhiều vì quản lý kém, vì đàn áp nông dân, và thậm chí cả vì tham nhũng. Uy tín của ông khi tại chức sa sút đến nỗi khi ông về vườn, một số báo chí đương thời coi đó là thành công lớn của dân chúng trong việc làm lành mạnh hoá đời sống chính trị Hoa Kỳ. Washington cũng không phải là nhà giải phóng theo đúng nghĩa, bởi lẽ ông cũng là một chủ nô. Khi chết năm 1799, ông là chủ của hơn ba trăm nô lệ. Thế nhưng chỉ ba chục năm sau khi chết, Washington đã trở thành một vị thánh. Vô số những quyền sách, tạp chí đua nhau viết về tài trí tuyệt vời và đạo đức cao cả của ông. Trong quá trình thần thánh hóa Washington, công đầu thuộc về Mason Locke Weems (1756 – 1825), hay Parson Weems, một vị mục sư kiêm chủ nhà in, tác giả của cuốn sách The Life of Washington (Cuộc đời Washington). Trong cuốn sách đó, Parson Weems bịa ra những mẩu chuyện mang tính ngụ ngôn nhằm ca ngợi tài năng và đạo đức của vị anh hùng dân tộc Hoa Kỳ. Washington đã trở thành vĩ nhân không chỉ vì sự nghiệp xuất sắc của ông. Washington trở thành vĩ nhân còn vì nước Mỹ, vốn không có quá khứ, cần phải có vĩ nhân và huyền thoại của riêng mình.  
Trong lịch sử Việt Nam, hai người xứng đáng nhất để được gọi là Vĩ nhân, theo tôi, là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh. Cuộc đời hai con người này có những nét tương đồng kỳ lạ. Cả hai đều là những người xuất chúng, kết tinh được tinh thần thời đại mình, đóng vai trò trung tâm trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và sau đó lại là linh hồn của những  biến đổi văn hóa-xã hội mang tính bước ngoặt của lịch sử đất nước. Cả Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đều đồng thời đóng rất nhiều vai, vai nào cũng ở trình độ rất cao: nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà tư tưởng và thậm chí là nhạc sĩ. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Nguyễn Trãi từng được vua Lê giao cùng với Lương Đăng “làm loan giá, nhạc khí, dạy tập nhạc và múa”[1]. Quan niệm về âm nhạc của Nguyễn Trãi gắn liền với quan điểm nhân văn của ông về thuật trị nước. Ông viết: “Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu làm nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ răng trong khoảnh thanh luật khó được hài hòa. Xin bệ hạ yêu nuôi nhân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cội gốc của nhạc vậy”. Hồ Chí Minh là người đầu tiên dịch bài hát L'Internationale (Quốc tế ca) ra tiếng Việt. Theo các tác giả Đào Trọng Từ, Huy Trân, Tú Ngọc, Hồ Chí Minh còn sáng tác nhiều bài hát dựa trên các làn điệu dân ca như «Bài ca tự vệ», «Ca binh lính», «Bài ca du kích »[2]. Tờ “Việt Nam độc lập”, số 117, hướng dẫn cách hát bài hát “Ca đội tự vệ” của Hồ Chí Minh, sáng tác năm 1942, như sau: “Chia người làm từng tổ, 4 câu trên tổ A hát trước, hát giọng cao (nếu có phụ nữ là tổ A) tổ B hát giọng thấp theo sau. Những chữ BÉN, SẮC, ĐÔNG, BỀN phải hát dài như BÉ-ÉN, SẮ-ẮC, ĐÔ-ÔNG, BỀ-ỀN. Hai câu sau cùng mỗi đoạn thì cả tổ đều hát với nhau, chữ CHẶT và chữ NÊN phải rất mạnh”[3]. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh cũng chính là tác giả hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của Việt Nam (Bài thơ “Nam Quốc sơn hà” mà trước đây nhiều người tin là của Lý Thường Kiệt gần đây được nhiều học giả chứng minh là khuyết danh và đã được Lê Hoàn sử dụng trước đó. “Nam Quốc sơn hà” là một bài thơ với tuyên ngôn đanh thép, nhưng dù sao cũng chưa phải là một bản tuyên ngôn độc lập đúng nghĩa).
Nhưng điểm tương đồng quan trọng hơn, nếu không nói là quan trọng nhất, điểm tương đồng khiến họ trở thành đối tượng của sự yêu ghét cuồng nhiệt, đồng thời khiến họ thực sự trở thành vĩ nhân, là những huyền thoại bao phủ cuộc đời và sự nghiệp của họ. Trong vô số những huyền thoại ấy, đặc biệt thú vị là huyền thoại về việc Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sử dụng sức mạnh của truyền thông nhằm mục đích xây dựng uy tín và thu phục nhân tâm.
Tương truyền, trong thời kỳ trứng nước của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi cho quân dùng mỡ viết lên lá rừng dòng chữ "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần". Lũ côn trùng, khi ăn mỡ, đã vô tình trở thành những chiếc máy in tự nhiên, biến hàng ngàn chiếc lá thành những tờ truyền đơn. Tôi được thầy giáo kể cho nghe câu chuyện này khi mới lên chín mười tuổi.  Đó là khỏang thời gian khốc liệt cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chúng tôi ngồi dưới hầm, hình dung nét mặt thành kính của người dân khi vớt từ dưới sông lên những chiếc lá mà họ tin rằng mang lời phán truyền của Trời.
Hồ Chí Minh cũng sử dụng kế ấy, nhưng theo cách của thời đại ông, tôi tin như vậy. Tôi muốn nói cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" của Trần Dân Tiên, xuất bản lần đầu tiên năm 1948, vào buổi trứng nước của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong cuốn sách, dựa trên lời kể của các nhân chứng có lẽ là hư cấu, Trần Dân Tiên phác họa nên chân dung một nhà lãnh tụ cách mạng với những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, người sẽ trở thành chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trần Dân Tiên là ai? Nhiều người cho rằng Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh, nhiều người khác không đồng ý như vậy. Phần lớn những người cho rằng Trần Dân Tiên và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau là những người hâm mộ Hồ Chí Minh. Ngược lại, phần lớn những người khẳng định Trần Dân Tiến và Hồ Chí Minh là một là những người căm ghét Hồ Chí Minh. Những người căm ghét Hồ Chí Minh khẳng định rằng Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh, bởi họ cho rằng việc tự viết một cuốn sách để ca ngợi mình là điều đáng phê phán. Những người hâm mộ Hồ Chí Minh khẳng định rằng Trần Dân Tiên không phải là Hồ Chí Minh cũng chính vì lý do tương tự: họ cũng cho rằng việc tự viết một cuốn sách để ca ngợi mình là điều đáng phê phán. Tôi là một trong không nhiều người hâm mộ Hồ Chí Minh nhưng lại tin rằng Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Hơn thế nữa, chính vì hâm mộ Hồ Chí Minh mà tôi tin như vậy.
Tại sao tôi lại tin rằng Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh?
Trước hết, nếu có một tác giả là Trần Dân Tiên và ông ta còn sống, thật khó tin rằng ông ta lại không đứng ra nhận bản quyền một tác phẩm nổi tiếng đến như vậy.
Nhưng nếu vì một lý do gì đó ông Trần Dân Tiên chọn cái quyết định khó tin ấy, hoặc nếu ông ta đã chết, thật khó tin là không một ai trong số những người đã cung cấp cho ông ta tư liệu về Hồ Chủ Tịch lại đồng loạt im lặng, giống hệt như tác giả cuốn sách.
Cuối cùng, giả sử cả Trần Dân Tiên lẫn các nhân chứng đều im lặng một cách khó tin như vậy, thật khó tin là không ai biết gì về một người đã gặp bao nhiêu người, đến bao nhiêu vùng đất, để thu thập bao nhiêu tài liệu, đủ cho cuốn sách.
Nhưng lý do chính để tôi tin rằng Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh là nội dung và phong cách của cuốn sách. “Những mẩu chuyện trong đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” quá hay. Nó giản dị nhưng linh hoạt, cuốn hút. Nó là sự kết hợp hoàn hảo giữa những trải nghiệm cá nhân với tính phổ quát, tính dân tộc với tính quốc tế, tính văn chương và tính tuyên truyền. « Những mẩu chuyện” mang đầy tính biểu tượng, giống như những chuyện ngụ ngôn nhưng lại mang những thông điệp chính trị rất cụ thể. Tóm lại, nó phải là tác phẩm của một vĩ nhân. Ai có thể viết ra nó, nếu không phải là Hồ Chủ Tịch?
Những điều tôi vừa viết trên đây về cuốn “Những mẩu chuyện trong đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” thật ra cũng có thể nói về một cuốn sách khác mà tôi rất muốn so sánh, đó là cuốn “Vừa đi đường vừa kể chuyện” của T. Lan. Bản thảo cuốn sách này đang được Bảo tàng Hồ Chí Minh xây dựng hồ sơ để đề nghị UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu thế giới. Hai cuốn sách “Những mẩu chuyện trong đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” giống nhau một cách kỳ lạ, không chỉ về đề tài, ngôn ngữ, phong cách, mà cả về bút pháp và thậm chí là về dung lượng. Nhưng trái với Trần Dân Tiên, T. Lan được công bố chính thức là một bút danh của Hồ Chủ Tịch.     
Ở trên tôi viết rằng cả những người hâm mộ lẫn những người căm ghét Hồ Chí Minh đều cho rằng việc tự viết một cuốn sách để ca ngợi mình là điều đáng phê phán. Nhưng điều đó chỉ đúng với những người tầm thường. Với những người tầm thường, tức là tất cả chúng ta, chỉ trừ các vĩ nhân, tự nói hay tự viết để ca ngợi mình là điều đáng phê phán. Nói vậy cũng có nghĩa là nói tất cả chúng ta đều đáng phê phán. Bởi vì trên thực tế, ngoài việc nhờ bạn bè, cánh hẩu, học trò, cấp dưới…ca ngợi mình – điều thường được coi là cao thượng hơn là tự ca ngợi – tự ca ngợi vẫn là cách chúng ta thường sử dụng. Chẳng hạn, chúng ta vẫn nói, “Tôi rất ghét thói giả dối”, “Em làm tất cả những thứ này là vì anh”, hay “Tôi không phải là người tham quyền cố vị…”
Nhưng những gì đúng với người thường không phải bao giờ cũng đúng với các vĩ nhân. Chúng ta không thể đo vĩ nhân bằng thước đo của những kẻ tầm thường. Học giả Arab, Mustafa al-Manfaluti, từng viết: “Sự vĩ đại đứng cao hơn nghệ thuật và tri thức, cao hơn pháp luật và quyền lực, cao hơn tước hiệu và của cải, bởi vì các nhà khoa học, các nghệ sĩ và những người danh tiếng thì có nhiều, còn những cá nhân vĩ đại thì rất ít gặp. Sự vĩ đại - đó là sức mạnh bẩm sinh của tinh thần mà không của cải nào mua được. Người đạt đến sự vĩ đại có một niềm tin chắc rằng mình khác biệt với những người trần khác về cả trái tim, trí tuệ, khuynh hướng tư tưởng và phương thức tư duy, rằng mình được cắt theo một thước đo khác những người khác và không nằm vừa trong khuôn khổ của các phe nhóm, giai cấp nào cả”[4].
Đúng vậy, không thể coi “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” là cuốn sách của một kẻ háo danh. Hồ Chí Minh quá nổi tiếng, sự nghiệp của ông quá sáng chói, ông không cần có thêm một cuốn sách để trở thành nổi tiếng. Và giả sử Hồ Chí Minh cần một cuốn sách như thế, chỉ cần ông đánh tiếng, chắc chắn sẽ có rất nhiều nhà văn tài giỏi và nổi tiếng sẵn sàng viết nó ra, không chỉ vì ngưỡng mộ, mà có thể còn vì vụ lợi. Nhưng Hồ Chí Minh đã quyết định tự viết ra cuốn sách. Tôi đoán, thời gian cấp bách là một yếu tố khiến Hồ Chủ Tịch phải quyết định như vậy. Hãy nhớ rằng cuốn sách được xuất bản năm 1948. Đó là thời điểm vô cùng khó khăn đối với Hồ Chí Minh. Cuộc cách mạng của ông đang đứng trước những nguy cơ to lớn. Đội quân phần lớn gồm những chàng trai chân đất của ông đang phải đối mặt đội quân viễn chinh thiện chiến của cường quốc Pháp, được hỗ trợ bởi cường quốc số một thế giới là Hoa Kỳ. Xin nhớ rằng cho đến lúc đó chính phủ của Hồ Chí Minh vẫn chưa được Liên Xô công nhận, còn cách mạng Trung Quốc thì đến 1949 mới thành công. Tình thế của cuộc kháng chiến chống Pháp lúc đó rất giống tình thế của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn khi Nguyễn Trãi mới dâng “Bình Ngô sách”. Và cũng như Nguyễn Trãi và Lê Lợi, Hồ Chí Minh buộc phải thu phục nhân tâm. Để thu phục nhân tâm, phải có một hình tượng trung tâm lý tưởng có thể thu phục nhân tâm. Ai có thể làm việc đó trong điều kiện nước sôi lửa bỏng như vậy? Tôi nghĩ là không có ai cả ngoài Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã phải tự viết lấy cuốn sách. Tôi tin rằng khi đó Hồ Chí Minh có nghĩ đến những tờ truyền đơn lá của Nguyễn Trãi.
Hồ Chí Minh có nghĩ rằng một ngày nào đó người ta sẽ bàn tán về tác giả của cuốn sách hay không? Tôi nghĩ rằng có. Với trí tuệ siêu việt, với kiến văn uyên thâm Đông Tây kim cổ, với sự từng trải và lịch lãm của mình, Hồ Chí Minh không thể không biết rằng vấn đề bản quyền của cuốn sách sẽ được bàn đến vào một ngày nào đó. Nhưng Hồ Chí Minh có cách bàn riêng của mình. Ông bàn với sự vĩnh cửu. Tôi hình dung nụ cười giễu cợt của ông. Có thể đó là một trò đùa của Hồ Chí Minh trong thời điểm vận mệnh quốc gia đang ngàn cân treo sợi tóc. Trò đùa chỉ có thể có ở một vĩ nhân.  
Có vô số huyền thoại đã và đang được thêu dệt xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh. Nhưng Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh còn một sự giống nhau khác, đó là sự yêu ghét tột cùng mà người ta dành cho họ. Sự yêu ghét tột cùng ấy là bằng chứng và cũng là đồng tác giả của sự vĩ đại.
Một lần nữa tôi lại muốn trích dẫn Mustafa al-Manfaluti. Ông viết: “Sự vĩ đại giống như chân lý, cả kẻ thù lẫn bạn bè đều phục nó. Người sáng tạo cũng như kẻ phá hoại đều phải chịu đựng sức nặng của nó. Ở đâu anh thấy một đoàn bạn bè, ở đấy anh thấy một đám kẻ thù. Chỗ nào anh thấy những kẻ thù chống đối nhau thì nên biết rằng: chỗ đó sự vĩ đại đang lên ngôi báu lớn lao của mình, vượt cao hơn tất cả”.

NTL (03-03-2010)


[1] Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,Văn hóa-Thông Tin, Hà Nội, 2004, tr. 157. 
[2] Đào Trọng Từ, Huy Trân, Tú Ngọc, Essais sur la musique vietnamienne, Edition en langues étrangères, Hanoi, 1979, tr. 154. 
[3] Nguyên văn bài hát như sau: “I. Gươm dao ta/ Đem mài đi/ Mài cho bén/ Mài cho sắc/ Nhật ta đâm/ Tây ta chặt. II. Sắp hàng ra/ Xung phong lên/ Người ta đông/ Sức ta bền/ Việc giải phóng/ Nhất định nên”. Trích theo Vũ Châu Quán, Nguyễn Huy Quát, Những điều chưa biết trong thơ ca chiến khu của Bác Hồ, Thanh Niên, Hà Nội, 2006, tr. 271.
[4] Mustafa al-Manfaluti (1876-1924), nhà văn và nhà khai sáng Arab. Đoạn văn nói trên trich trong “Sự vĩ đại”, do Ngân Xuyên dịch. <Talawas.org>

---

2 nhận xét:

  1. Em nhớ là hình như bác từng có bài bác bỏ nhận định của ông NTL hay sao ấy nhỉ!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Có cái mình đồng quan điểm, có cái mình không đồng quan điểm, Khoằm à. Riêng về vấn đề trong bài này, mình thấy suy nghĩ của bác NTL rất chi là thú vị (thú vị với nghĩa thú vị ấy). Chỉ thấy thế, không thấy sở cứ đưa ra, chỉ là suy đoán, nên không đồng tình, cũng không đồng quan điểm.

      Xóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.